Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng  247
KHẢO SÁT VAI TRÒ PHẢN XẠ CƠ BÀN ĐẠP  
TRONG BỆNH LÝ ĐIẾC ĐỘT NGỘT 
Nguyễn Văn Hải*, Phạm Ngọc Chất** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Điếc đột ngột là bệnh lý hay gặp trong cấp cứu nội khoa Tai Mũi Họng, nhưng việc chẩn đoán, 
điều trị cũng như tiên lượng còn nhiều hạn chế, vì vậy cần nhiều nghiên cứu thử nghiệm và nhiều phương tiện 
đánh giá khách quan. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định sự thay đổi của phản xạ cơ bàn đạp trong bệnh điếc đột ngột. Khảo sát mối 
tương quan giữa phản xạ cơ bàn đạp và thính lực đồ trong bệnh điếc đột ngột. 
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca, thực nghiệm lâm sàng và 
cận lâm sàng không nhóm chứng trên 231 ca / 277 tai. Tại bệnh viện Tai Mũi Họng thành phố Hồ Chí Minh.Từ 
tháng 06 năm 2012 đến tháng 05 năm 2013. 
Kết quả: Trong231 ca / 277 tai: mối tương quan giữa phản xạ cơ bàn đạp và thính lực đồ với số liệu thống 
kê qua các mẫu cho thấy: Thính lực đường khí lúc nhập viện và sau 10 ngày điều trị (mức độ cải thiện) của 2 
nhóm PXCBĐ âm và dương: PXCBĐ âm 106 tai; thu hồi trung bình lại được 11,57dB. PXCBĐ dương: 171 
tai; thu hồi trung bình là: 16,43dB. 
Kết luận: Bệnh nhân có phản xạ cơ bàn đạp dương thì thu hồi thính lực tốt hơn là phản xạ cơ bàn đạp âm. 
Từ khóa: Điếc đột ngột 
ABSTRACT 
ROLE OF STAPEDIAL REFLEX IN SUDDEN DEAFNESS 
Nguyen Van Hai, Pham Ngoc Chat  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 247 ‐ 251 
Background:  Sudden  deafness  is  a  common  disease  occur  to  medical  emergency  in  department  of 
otolaryngology.But in the way of diagnosing,cure and prognosis are limited so we need many researches,testes 
and a lots research facilities in order to have a fair evaluation. 
Objectives:  ‐To detect the changes of pedal reflex  in sudden deafness.To consult the correlations between 
pedal reflex and audiogram in sudden deafness. 
Method: Research  and describe  in many  cases,experiment  on  clinical  trials  and  subclinical  trials  of 231 
cases/277 ears at ENT hospital,Ho Chi Minh city from June 2012 to May 2013 
Results: In 231 cases/277 ears: the correlations between pedal reflex and audiogram in sudden deafness with 
statistical documentaries show that: Hearing ability when enter the hospital and after 10 day‐cure of 2 groups 
positive pedal reflex and negative pedal reflex : Negative pedal reflex of 106 ears;recoverable average: 11,57 
dB. Positive pedal reflex of 171 ears;recoverable average: 16,43 dB 
Conclusion: Patients who have positive pedal reflex recover hearing ability more quickly than patients who 
have negative pedal reflex.  
Key word: Sudden deafness 
* Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận ** Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Văn Hải  ĐT: 0983100994  Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 248
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Điếc đột ngột là bệnh lý cấp cứu thường gặp 
trong  chuyên  khoa Tai Mũi Họng, Chẩn  đoán 
chủ yếu để xác định điếc đột ngột dựa vào đo 
thính  lực, song đo  thính  lực  tuy  là  thử nghiệm 
khách quan nhưng mang tính chủ quan cho nên 
giá trị vẫn còn mặt hạn chế. 
Do  đó  vẫn  cần  nhiều  nghiên  cứu,  nhiều 
nghiệm pháp thử nghiệm và nhiều phương tiện 
đánh  giá  khách  quan,  nhằm  xác  định  bệnh  lý 
điếc  đột  ngột  để  phân  loại mức  độ,  chọn  lựa 
phương pháp  điều  trị và  đánh giá kết quả hồi 
phục sức nghe sau điều trị cũng như tiên lượng 
bệnh.  Có  nhiều  phương  tiện  để  khảo  sát  sức 
nghe từ đơn giản đến phức tạp, từ chủ quan đến 
hoàn  toàn  khách  quan;  chính  vì  vậy,  rất  cần 
những nghiên cứu ứng dụng những thử nghiệm 
khách quan này vào lâm sàng. Điều này sẽ giúp 
cho thầy thuốc thêm phương tiện để chẩn đoán 
và tiên lượng cũng như kết quả điều trị. 
Điếc đột ngột là điếc tai trong, hơn nữa phản 
xạ cơ bàn đạp là một thử nghiệm đánh giá chức 
năng cơ bản, hoàn toàn khách quan, không xâm 
hại đến người bệnh, dể dàng thực hiện và người 
bệnh cũng dễ dàng hợp  tác,  thao  tác đơn giản. 
Phản xạ cơ bàn đạp tuy không đánh giá trực tiếp 
sức nghe song qua đó, có thể giúp thầy thuốc dự 
đoán  người  bệnh  nghe  được  ở  mức  độ  nào. 
Chính  vì  vậy  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu 
“Khảo sát vai trò phản xạ cơ bàn đạp trên bệnh 
điếc đột ngột” 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  điếc  đột  ngột 
được điều trị nội trú tại bệnh viên Tai Mũi Họng 
Tp. HCM từ 2012 2013. 
Phương pháp nghiên cứu 
Tiến cứu mô tả hàng loạt ca. 
Qui trình thực hiện 
Qua 277  tai  được  chẩn  đoán  điếc  đột ngột, 
được  khám  lâm  sàng,  khai  thác  bệnh  sử  cũng 
như tiền sử và làm các xét nghiệm cận lâm sàng. 
Bệnh nhân được đo phản xạ cơ bàn đạp và thính 
lực đồ 3  lần  liên tiếp cách nhau mỗi 5 ngày(lúc 
nhập viện, sau 5 ngày và kết thúc đợt điều trị). 
Điều trị theo phát đồ chuẩn của bệnh viện. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đăc điểm lâm sàng 
Điếc  đột  ngột  tai  phải:  118  tai,  chiếm 
42,6%.Điếc  đột  ngột  tai  trái:  159  tai,  chiếm 
57,4%.Tuổi  được  ghi  nhận:  Tuổi  nhỏ  nhất 
18.Tuổi  lớn nhất  59.Tuổi  trung bình  40,63.Tỉ  lệ 
giới tính: Nam 49,8%. Nữ 50,2%. 
Biểu đồ 1: Thời gian khởi phát bệnh 
Nhập  viện  ngày  thứ  nhất:  11  tai  chiếm 
4%,Ngày thứ hai: 35 tai chiếm 12,6%;Ngày thứ 3: 
28 tai chiếm 10,1%; sau ngày thứ 3 chiếm 73,3%. 
Sau ngày thứ 3: 203 tai. 
Biểu đồ 2: Phân độ nghe kém lúc nhập viện 
Độ  1;  41tai  chiếm  14%.  Độ  2;  87tai  chiếm 
31,3%.  Độ  3;  80tai  chiếm  28,9%.  Độ  4,  69tai 
chiếm 24,9%. Tổng số 277tai chiếm 100% 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng  249
Mối  tương  quan  giữa  PXCBĐ  và  thính 
lực đồ lúc nhập viện 
‐  Nhóm  PXCBĐ  âm  tính,  thính  lực  trung 
bình: 80,96dB. 
‐ Nhóm PXCBĐ dương tính, thính lực trung 
bình 58,71dB 
Với kết quả thống kê này ta nhận thấy giữa 2 
nhóm phản xa cơ bàn đạp âm và dương có sự 
khác biệt rõ có độ chênh nhau khoảng 30dB đây 
là một con số có ý nghĩa. Nếu  tiếp  tục điều  trị 
sau năm ngày đánh giá lại sự thay đổi đó là rất 
rõ. 
Phản xạ cơ bàn đạp sau 5 ngày điều trị 
‐ Âm tính: 79 tai chiếm 28,6% 
‐ Dương tính: 198 tai chiếm 71,4% 
So  sánh  PXCBĐ  lúc  nhập  viện  và  sau  5 
ngày điều trị:  
Phản xạ cơ bàn đạp Âm Dương Tổng số 
Lúc nhập viện 106 171 
277 
Sau 5 ngày điều trị 79 198 
Thính lực thay đổi sau 5 ngày điều trị 
‐  Đường  khí  và  đường  xương  mất  nhiều 
nhất 50dB 
‐  Cải  thiện  lớn  nhất  đường  khí:  78,33dB; 
đường xương: 86,67dB 
‐ Trung bình:  đường  khí  là  10,9dB.  Đường 
xương là 10,8dB 
Thính lực chung sau 10 ngày điều trị 
Qua mẫu nghiên cứu, sau 10 ngày điều  trị, 
chúng tôi nhận thấy:  
‐ Thính lực đường khí trung bình: 52,97dB. 
‐  Thính  lực  đường  xương  trung  bình: 
47,83dB 
Sự  thay  đổi Pxcbđ  từ  lúc  nhập  viện  đến  lúc 
xuất viện 
Sự thay đổi PXCBĐ trong quá trình điều trị. 
PXCBĐ Âm Dương Tổng số 
Lúc nhập viện 106 171 
277 Sau 5 ngày 79 198 
Sau 10 ngày 87 190 
Thính lực đường khí lúc nhập viện và sau 10 
ngày điều trị (mức độ cải thiện) của 2 nhóm 
PXCBĐ âm và dương 
PXCBĐ Kết quả (tai) Trung bình thu hồi được (dB) 
Âm 106 11,57 
Dương 171 16,43 
‐ PXCBĐ âm: 106  tai;  thu hồi  trung bình  lại 
được 11,57dB 
‐ PXCBĐ dương: 171 tai; thu hồi trung bình 
là: 16,43d 
Qua kết quả nghiên cứu, trong nhóm nghe kém 
độ  1  lúc  nhập  viện  và  đến  khi  xuất  viện 
chúng tôi nhận thấy 
Nhóm có PXCBĐ âm  tính,  tỉ  lệ  trở về bình 
thường: 0%; vẫn giữ nguyên độ 1: 83,3%; chuyển 
nặng thành độ 2: 16,7%. 
Trong khi nhóm có PXCBĐ dương tính: tỉ lệ 
trở về bình thường 34,3%; vẫn giữ nguyên độ 1: 
60,6%; chuyền nặng  thành độ 2  ít hơn với  tỉ  lệ: 
5,7%. 
Trong nhóm điếc đột ngột độ 2 lúc nhập viện 
đến khi xuất viện chúng tôi ghi nhận 
‐ Nhóm  PXCBĐ  âm  tính:  thính  lực  đường 
khí trở về độ 1 và bình thường là 40,9%, vẫn giữ 
nguyên độ 2 là 54,2%. 
‐ Trong khi đó nhóm PXCBĐ dương tính lúc 
nhập viện:  thính  lực  đường khí  trở về độ 1 và 
bình  thường  là 53,9%, vẫn giữ nguyên  độ  2  là 
41,3%. 
Từ kết quả nghiên cứu, trong nhóm điếc đột 
ngột độ 3 lúc nhập viện đến khi xuất viện chúng 
tôi nhận thấy:  
‐ Nhóm PXCBĐ âm tính lúc nhập viện: thính 
lực giảm xuống thành độ 2, 1, và bình thường là 
58,9%,  giữ  nguyên  độ  3  là  23,5%,  và  chuyển 
thành độ 4 là 17,6%. 
‐ Nhóm PXCBĐ dương  tính  lúc nhập viện: 
thính lực giảm xuống thành độ 2, 1, bình thường 
là 67,8%, giữ nguyên độ 3 là 32,3%, và không ghi 
nhận trường hợp chuyển thành độ 4. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 250
Trong nhóm điếc đột ngột độ 4 lúc nhập viện 
đến khi xuất viện chúng tôi nhận thấy 
‐ Nhóm PXCBĐ âm tính lúc nhập viện: thính 
lực giảm xuống độ 3, 2,1, bình thường chiếm tỉ lệ 
ít: 16,7%, giữ nguyên độ 4: 83,3%. 
‐ Nhóm PXCBĐ dương  tính  lúc nhập viện: 
thính  lực  giảm  xuống  độ3,2,1,bìnhthường  là 
57,1% và giữ nguyên độ 4 là 42,9%. 
BÀN LUẬN 
Qua nghiên cứu 277  tai bị điếc đột ngột  tại 
BV Tai Mũi Họng Thành Phố Hồ Chí Minh  từ 
tháng 7 năm 2012 đến tháng 5 năm 2013, chúng 
tôi có thể rút ra kết luận như sau:  
Xác định sự thay đổi của PXCBĐ trong điếc 
đột ngột 
Trong  277  tai  nghiên  cứu,  có  106  tai  có 
PXCBĐ  âm  tính  chiếm  tỉ  lệ  38,3%.  177  tai  có 
PXCBĐ dương tính chiếm tỉ lệ 61,7%. 
‐  Nhóm  PXCBĐ  âm  tính  có  trung  bình 
đường khí mất 80,96dB cao hơn rất nhiều so với 
nhóm PXCBĐ dương tính là 58,71dB và sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê. 
‐  Sau  5  ngày  điều  trị  điếc  đột  ngột,  nhóm 
PXCBĐ  âm  tính  còn  79  tai  chiếm  tỉ  lệ  28,6%, 
tương ứng với sức nghe  trung bình đường khí 
mất là 74,7dB. nhóm PXCBĐ dương tính có 198 
tai  chiếm  tỉ  lệ  71,4%,  tương  ứng  với  sức  nghe 
trung bình đường khí mất là 45,4dB. 
‐ Sau 10 ngày  điều  trị  điếc  đột ngột, nhóm 
PXCBĐ  âm  tính  là  87  tai  chiếm  31,4%,  tương 
ứng với sức nghe  trung bình đường khí mất  là 
84,3dB.  Nhóm  PXCBĐ  dương  tính  là  190  tai 
chiếm 68,6%, tương ứng với sức nghe đường khí 
mất trung bình là 40,6dB. 
Với số liệu thống kê đã có, cho thấy có mối 
tương quan như sau:  
‐ Nhóm PXCBĐ âm tính theo từng thời điểm 
điều trị, kết quả sức nghe giảm đi nhiều hơn. 
‐ Nhóm PXCBĐ âm tính chuyển qua dương 
tính  hay  vẫn  dương  tính  theo  từng  thời  điểm 
điều trị, sức nghe tăng lên nhiều hơn. 
Mối tương quan giữa PXCBĐ và thính lực 
trong điếc đột ngột 
‐ Nhóm điếc đột ngột độ 1 lúc nhập viện:  
+ Nhóm PXCBĐ âm tính: sức nghe tốt hơn là 
0%,  giữ  nguyên  độ  1  là  83,3%,  nặng  hơn  là 
16,7%. 
+ Nhóm  PXCBĐ  dương  tính:  sức  nghe  tốt 
hơn là 34,3%, giữ nguyên độ 1 là 60,6%, chuyển 
sang  độ  2  là  5,7%. Không  có  trường  hợp  nào 
chuyển sang độ 3 và 4. 
‐ Nhóm điếc đột ngột độ 2 lúc nhập viện:  
+ Nhóm PXCBĐ âm tính: sức nghe tốt hơn là 
40,9%, giữ nguyên độ 2 là 54,2%, chuyển thành 
độ 3 là 4,5%. 
+ Nhóm  PXCBĐ  dương  tính:  sức  nghe  tốt 
hơn là 53,9%, giữ nguyên độ 2 là 41,3%, chuyển 
sang  độ  3  là  4,8%. Không  có  trường  hợp  nào 
chuyển sang độ 4. 
‐ Nhóm điếc đột ngột độ 3 lúc nhập viện:  
+ Nhóm PXCBĐ âm tính: sức nghe tốt hơn là 
58,9%, giữ nguyên  độ  3  là  23,5%, nặng hơn  là 
17,6%. 
+ Nhóm  PXCBĐ  dương  tính:  sức  nghe  tốt 
hơn  là 67,8%, giữ nguyên độ 3  là 32,3%, không 
có trường hợp nào nặng hơn. 
‐ Nhóm điếc đột ngột độ 4 lúc nhập viện:  
+ Nhóm PXCBĐ âm tính: sức nghe tốt hơn là 
16,7%, giữ nguyên độ 4 là 83,3%. 
+ Nhóm  PXCBĐ  dương  tính:  sức  nghe  tốt 
hơn là 57,1%, giữ nguyên độ 3 là 42,9%. 
Nhìn chung:  
+ Nhóm PXCBĐ âm tính sức nghe hồi phục 
là 29%, vẫn giữ nguyên độ điếc là 65,6%, độ điếc 
nặng hơn là 5,4%. 
+ Nhóm  PXCBĐ  dương  tính  sức  nghe  cải 
thiện là 52,6%, giữ nguyên độ điếc là 44,5%, độ 
điếc nặng lên là 2,9%. 
KẾT LUẬN 
Với kết quả nghiên cứu mà chúng tôi đã có 
được, nó đóng góp một phần nào đó cho bệnh 
nhân  điếc  đột  ngột  cũng  như  dự  hậu  và  tiên 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng  251
lượng cho người bệnh. 
‐ Dù là điếc ở cấp độ nào mà thấy xuất hiện 
PXCBĐ thì khả năng phục hồi tốt. 
‐ PXCBĐ dương  (đinh  cao)  thì mức  độ  cải 
thiện gần như hoàn toàn. 
‐ Trong quá trình điều trị mà thấy xuất hiện 
PXCBĐ thì tiên lượng và dự hậu tốt hơn. 
‐ Ngay khi xuất viện mà thính lực đồ không 
cải thiện nhưng có xuất hiện PXCBĐ thì dự hậu 
tốt, nên động viên bệnh nhân  tiếp  tục  theo dõi 
và điều trị tiếp. (không nên bỏ điều trị). 
‐ Trong quá trình điều trị, cũng như quay lại 
tái khám mà không thấy xuất hiện PXCBĐ cũng 
đồng nghĩa là thính lực không cải thiện, thì nên 
khuyên người bệnh  tốt hơn  là nên  tìm phương 
pháp hỗ trợ khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chu Lan Anh (2003), “Góp phần nghiên cứu điều trị Điếc đột 
ngột vô  căn bằng Oxy  cao áp  tại bệnh viện Tai Mũi Họng 
Thành phố Hồ Chí Minh”. 
2. Nguyễn Đình Bảng (1992), “Điếc đột ngột”, tài liệu dịch: Cẩm 
nang thực hành Tai Mũi Họng, trang 174 – 177 
3. Lương Sĩ Cần (2003), “Giải phẫu và sinh lý nghe”. Tài liệu nội 
trú Tai Mũi Họng số 2. Điếc và nghễnh ngãng, trang 43 – 50. 
4. Huỳnh Khắc Cường (2007), “Sinh lý nghe của bộ máy thính 
giác”. Bài giảng lâm sàng Tai Mũi Họng, trang 42‐47  
5. Đặng Xuân Hùng (2010), Thính học lâm sàng và phản xạ âm 
(phản xạ cơ bàn đạp), Nhà xuất bản Y học, trang 82‐107 
6. Ngô Ngọc Liễn (2001). Thính học ứng dụng. Nhà xuất bản Y 
học, trang 3 – 46. 
7. Lê Văn Lợi (1998), “Cấp cứu thần kinh giác quan – Điếc đột 
ngột”. Cấp cứu Tai Mũi Họng, trang 445 – 461 
8. Ft‐rguson MA,  Smith  PA,  Lutman ME, Mason  SM,  Coles 
RRA, Gibbin KP  (1996). Effciency of  test used  to  screen  for 
cerebello‐pontine 
9. Gelfand SA  (1997).Essntials ofaudiology. New York:  thieme 
Medical Publishers. 
10. Lew  H,  Jerger  J  (1991)  Diagnostic  applications  of 
suprathreshold  acoustic  reflex  orphology,  Hear  Instrum; 
42(8): 21‐23 
11. Qiu WW, Stucker FJ  (1997) Characteristics of acoustic  reflex 
latency in normal‐hearing subjects. Scand Audiol 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014