Khóa luận Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế

Trong những năm qua, dệt may luôn được coi là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, giá trị xuất khẩu mà nó mang lại tăng liên tục trong khoảng 20 - 25%/năm, chiếm 14 - 15% kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho hơn 2 triệu lao động, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng vị trí thứ hai sau dầu thô và dự kiến sẽ đạt 5,183 tỷ USD vào năm 2005. Cùng với thời gian, sản phẩm dệt may Việt Nam đã dần khẳng định được vị trí của mình, đã thâm nhập được vào nhiều thị trường trên thế giới kể cả những thị trường khó tính nhất như EU, Mỹ, Nhật Bản, .Chính từ những kết quả kinh tế - xã hội to lớn mà ngành dệt may xuất khẩu mang lại cho đất nước mà việc nghiên cứu, phân tích để nắm rõ và hiểu một cách cặn kẽ thực trạng trong hoạt động xuất khẩu cũng như điểm mạnh, điểm yếu của ngành trở thành một yêu cầu hết sức cần thiết trong việc đề ra các chính sách, giải pháp đúng đắn, phù hợp nhằm đưa hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam lên những tầm cao mới trong tương lai, đặc biệt kể từ khi chế độ chế độ hạn ngạch được xoá bỏ dành cho các nước thành viên của WTO.

Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “xuat khau hang det may viet nam truoc dong thai moi cua thuong mai quoc te” cho khoá luận tốt nghiệp. Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, kết cấu của khoá luận gồm 2 phần:

Phần 1: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước khi xoá bỏ hạn ngạch.

Phần 2: Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế.

 

doc54 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Khóa luận Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong những năm qua, dệt may luôn được coi là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, giá trị xuất khẩu mà nó mang lại tăng liên tục trong khoảng 20 - 25%/năm, chiếm 14 - 15% kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho hơn 2 triệu lao động, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng vị trí thứ hai sau dầu thô và dự kiến sẽ đạt 5,183 tỷ USD vào năm 2005. Cùng với thời gian, sản phẩm dệt may Việt Nam đã dần khẳng định được vị trí của mình, đã thâm nhập được vào nhiều thị trường trên thế giới kể cả những thị trường khó tính nhất như EU, Mỹ, Nhật Bản,….Chính từ những kết quả kinh tế - xã hội to lớn mà ngành dệt may xuất khẩu mang lại cho đất nước mà việc nghiên cứu, phân tích để nắm rõ và hiểu một cách cặn kẽ thực trạng trong hoạt động xuất khẩu cũng như điểm mạnh, điểm yếu của ngành trở thành một yêu cầu hết sức cần thiết trong việc đề ra các chính sách, giải pháp đúng đắn, phù hợp nhằm đưa hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam lên những tầm cao mới trong tương lai, đặc biệt kể từ khi chế độ chế độ hạn ngạch được xoá bỏ dành cho các nước thành viên của WTO. Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “xuat khau hang det may viet nam truoc dong thai moi cua thuong mai quoc te” cho khoá luận tốt nghiệp. Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, kết cấu của khoá luận gồm 2 phần: Phần 1: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước khi xoá bỏ hạn ngạch. Phần 2: Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước động thái mới của thương mại quốc tế. Phần 1 : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước khi xoá bỏ hạn ngạch 1.1. Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngành dệt may Việt Nam Ngành công nghiệp dệt may là ngành có truyền thống lâu đời đối với cuộc sống của nhân dân ta. Nó không chỉ có vai trò quan trọng thoả mãn nhu cầu trong nước mà còn tham gia xuất khẩu thu ngoại tệ để trang trải các nhu cầu nhập khẩu trong nước. Ngành dệt may luôn là một trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nước và được nhà nước khuyến khích phát triển. Ngành dệt may của nước ta ra đời từ những năm 1958 ở miền Bắc và những năm 1970 ở miền Nam. Cho tới năm 1975 sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, ngành dệt may nước ta có điều kiện phát triển và khẳng định mình. Các nhà máy dệt được hình thành ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thu hút hàng ngàn lao động. Trong suốt thời gian dài các nhà máy gặp nhiều khó khăn trong sản xuất hàng phục vụ thị trường nội địa do máy móc thiết bị còn lạc hậu, trình độ sản xuất và quản lý còn hạn chế. Cho đến những năm 1975, ngành dệt may Việt Nam đã hợp tác với Liên Xô và các nước Đông Âu, đã có hàng xuất khẩu sang các nước này nhưng chủ yếu là hàng gia công, hàng bảo hộ lao động với nguyên liệu, thiết bị do họ cung cấp. Từ nửa cuối năm 1990, như một hệ quả tất yếu của những biến động chính trị, các thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu tan rã nhanh chóng. Cuộc khủng hoảng nghiêm trọng sâu sắc về nhiều mặt của hệ thống XHCN Đông Âu và việc giải thể Hội đồng tương trợ kinh tế đã đặt hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trước những khó khăn chồng chất, nan giải nhất là không có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong hoàn cảnh đó, ngành dệt may một mặt khôi phục lại vị trí của mình trên thị trường truyền thống, mặt khác phải tìm cách thâm nhập các thị trường mới, đặc biệt là thị trường các nước công nghiệp phát triển. Thị trường các nước phát triển với yêu cầu cao về chất lượng, mẫu mã, thời gian giao hàng,….gây nhiều bỡ ngỡ cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam từ lâu đã quen với cách làm ăn của thị trường các nước anh em dễ tính. Tuy nhiên, sang năm 1992 được sự phối hợp và hỗ trợ tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp vĩ mô cùng những kết quả thu được của công cuộc đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế đang đi vào chiều sâu với những thắng lợi trong quan hệ đối ngoại, chính sách mở cửa của ngành dệt may xuất khẩu đã từng bước phục hồi và phát triển. Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và cộng đồng châu Âu được ký kết vào ngày 15/12/1992 đã mở ra cho ngành dệt may Việt Nam một thị trường tiêu thụ rộng lớn. Ngành dệt may Việt Nam cũng đã đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công hoặc phương thức thuơng mại thông thường với một số nước có nền công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp mới như Đài Loan, Hồng Kông, Singapore. Và gần đây sau khi Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, hàng dệt may Việt Nam có thêm thị trường Mỹ. Trong những năm gần đây ngành dệt may Việt Nam đã phát triển quy mô sản xuất một cách nhanh chóng. Hàng loạt công ty, doanh nghiệp ra đời thu hút hàng vạn lao động, sản lượng dệt may sản xuất tăng nhanh cùng với việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, một bước đánh dấu quan trọng trong lịch sử ngành dệt may Việt Nam là ngày 29/4/1995, chính phủ Việt Nam đã ký quyết định thành lập Tổng công ty dệt may Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Vietnam National Textile And Corporation, viết tắt là Vinatex. Vinatex là sự hợp nhất của Tổng công ty dệt Việt Nam và Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất - xuất nhập khẩu may mặc. Sự tổng hợp này nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tạo thế và lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh hàng dệt may phát triển. Hiện nay, Việt Nam có trên 1050 doanh nghiệp dệt may với hơn 5000 cơ sở sản xuất đang hoạt động, trong đó có 231 doanh nghiệp nhà nước chiếm 28%, 449 doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 32%, 354 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 30%,…..(tính đến năm 2003). Kim ngạch xuất khẩu cả năm của các đơn vị này đạt 3,6 tỷ USD, tăng gần 31% so với năm 2002 (2751 triệu USD). Trong đó, thị trường Mỹ đạt 1950 triệu USD, EU 600 triệu USD và Nhật Bản gần 500 triệu USD. Đây được coi là những dấu hiệu tốt cho thấy dệt may Việt Nam đã có khả năng phát triển mạnh mẽ. 1.1.2. Tiềm năng và lợi thế về sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 1.1.2.1. Lợi thế về nguồn nhân lực Nước ta là một nước có dân số đông, lực lượng lao động dồi dào. Tính đến ngày 1/4/1999, dân số cả nước là 76,327,900 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 43,8 triệu người . Đến thời điểm hiện nay, dân số nước ta ở vào khoảng 82 triệu người, đứng thứ hai trong các nước ASEAN, chỉ sau Indonesia. Hàng năm ở Việt Nam có khoảng 1,5 đến 1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động, tạo thành đội ngũ dự bị hùng hậu bổ sung vào lực lượng lao động vốn đã rất đông. Thêm vào đó, quá trình đô thị hoá tạo ra sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị, số lao động ngày càng gia tăng. Lực lượng lao động đông đảo chính là điều kiện cần để công nghiệp dệt may phát triển thuận lợi. Đây là một lợi thế lớn bởi ở những bước tiến ban đầu của ngành dệt may, lực lượng lao động Việt Nam sẽ luôn đủ khả năng đáp ứng những yêu cầu của ngành về lao động. Bên cạnh đó, khả năng giảm bớt sức ép về việc làm cũng giúp ngành nhận được những quan tâm, khích lệ từ phía chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của ngành. Bên cạnh sự dồi dào về lao động, phải kể đến chất lượng của nguồn lao động. Trong những năm gần đây, trình độ học vấn của người dân Việt Nam nói chung đã tăng lên đáng kể, trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề của người lao động cũng được cải thiện nhiều. Tuy nhiên, số lao động lành nghề của nước ta vẫn còn ít, chưa đủ để đáp ứng cho một số ngành công nghiệp kỹ thuật cao (như công nghiệp lắp ráp, công nghiệp điện tử). Những ngành này vẫn phải tốn nhiều chi phí cho đào tạo công nhân, gây tổn thất về thời gian và tiền bạc. Song, với ngành dệt may, nhu cầu về lao động kỹ thuật cao không lớn bởi đặc thù của ngành là sử dụng nhiều lao động giản đơn, đặc biệt là ngành may. Trình độ tay nghề của công nhân cũng là cần thiết để nâng cao năng suất lao động, nhưng đó không phải là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của ngành. Do vậy chúng ta có thể khẳng định: mặc dù chất lượng lao động Việt Nam chưa cao, sự dồi dào về số lượng lao động vẫn là một lợi thế trước mắt cơ bản và quan trọng để phát triển công nghiệp dệt may trong thời gian tới. Vấn đề là cần có chính sách sử dụng nguồn nhân lực này một cách hợp lý và có hiệu quả, đồng thời cũng cần tổ chức các hình thức giáo dục, đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Ngoài ra nguồn nhân lực của nước ta còn có lợi thế là tiền lương tính theo giờ thấp. Mức lương công nhân ngành may hiện nay là 0,24 USD/giờ, thấp hơn hẳn so với một số nước trong khu vực như: Inđônêsia (0,32 USD/giờ), Singapore (1,13 USD/giờ, Thái Lan (1,18 USD/giờ). Cũng giống như sự dồi dào về lao động, mức lương thấp chỉ là một lợi thế trước mắt và không có tính bền vững vì yếu tố chất lượng mới quyết định năng suất lao động. Nếu mức lương thấp nhưng tay nghề lao động không đồng đều nhau hay quá kém thì cũng cho năng suất lao động thấp, điều này cũng có nghĩa là chi phí sản xuất cao, dẫn đến giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh giảm. Hiện nay, giá nhân công thấp đang là một lợi thế của toàn bộ nguồn lao động Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng. Song trong thời gian tới, lợi thế này sẽ mất dần đi nếu như chúng ta không thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động và trình độ tay nghề của công nhân để củng cố ưu thế cạnh tranh. Chất lượng lao động, bao gồm cả trình độ tay nghề và sức khoẻ của người lao động sẽ giúp tăng năng suất lao động, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó hàng may Việt Nam mới giữ được chữ tín với khách hàng. 1.1.2.2. Lợi thế về điều kiện vị trí địa lý - Về điều kiện tự nhiên: Nước ta là một nước nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu nên có thể tự túc nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp, trong đó có công nghiệp dệt may. Ngành dệt may cần có nguyên liệu là bông, sợi để dệt vải. Việt Nam lại có khí hậu nhiệt đới ẩm nên rất thuận lợi cho việc trồng dâu nuôi tằm, cung cấp nguyên liệu để sản xuất nên những sản phẩm bằng lụa là sản phẩm được khách hàng nước ngoài rất ưa chuộng. Khí hậu và đất đai nước ta cũng thích hợp cho việc trồng bông, song nhiều diện tích trồng bông của nước ta còn khiêm tốn với tiềm năng chỉ đáp ứng được 10-15% nhu cầu. Hàng năm ngành lại phải nhập khẩu trên 90% nguyên liệu sợi. Như vậy, vấn đề cần thiết hiện nay là phải xem xét lại nguồn cung cấp nguyên liệu cho ngành làm sao tận dụng được mọi tiềm năng về mặt tự nhiên để phục vụ cho việc sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Nếu tự cung cấp được nguyên liệu thì sẽ giảm được giá thành rất nhiều so với nhập khẩu từ nước ngoài vào. Mặt khác, những ngành có liên quan đến công nghiệp dệt may, có thể hỗ trợ cho ngành dệt may, nếu được sự quan tâm cũng có nhiều tiềm năng phát triển. Ví dụ, các ngành hoá chất, nhuộm, du lịch. Đặc biệt ngành tạo mốt ở nước ta tuy mới xuất hiện và còn non yếu, nhưng đã được quan tâm chú ý như một lĩnh vực mới đầy hấp dẫn. - Vị trí địa lý: Việt Nam nằm trong khu vực châu á Thái Bình Dương, là khu vực mà các hoạt động kinh tế diễn ra rất sôi nổi. Việc trao đổi hàng hoá, giao lưu kinh tế giữa các nước trong khu vực với nhau và các nước khác trên thế giới ngày càng nhiều. Do đó, sản phẩm dệt may có rất nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trường quốc tế, mở rộng thị phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra Việt Nam còn có bờ biển dài hơn 3000 km giao thông đường biển rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá cũng như cho hoạt động du lịch, giao lưu văn hoá, giao lưu kinh tế với các quốc gia khác. Những đặc điểm về mặt tự nhiên đó cho phép Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển công nghiệp dệt may. Nhưng trên thực tế chúng ta vẫn chưa tận dụng được triệt để những lợi thế tự nhiên này. Vì sao lại như vậy? Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là do sự phát triển không đồng bộ của nền kinh tế. Ngay trong nội bộ ngành dệt may đã có sự mất cân đối giữa ngành dệt và ngành may, ngành dệt đòi hỏi phải đầu tư vốn lớn, công nghệ tiên tiến, trình độ khoa học kỹ thuật cao hơn nên sẽ là quá khả năng nếu đầu tư để ngành dệt phát triển ngang bằng ngành may. Sự yếu kém của ngành dệt dẫn đến hậu quả tất yếu là thiếu nguyên liệu cho ngành may, không khai thác được lợi thế tự nhiên trong việc tự túc nguyên liệu. Ngoài ra cơ sở hạ tầng nước ta còn rất yếu kém, mà những vùng trồng cây công nghiệp, cây nguyên liệu lại thường ở xa, gây khó khăn cho quá trình vận chuyển. Cơ sở hạ tầng kém cũng cản trở sự phát triển của du lịch, giao lưu kinh tế bằng đường bộ. Giải quyết vấn đề này không phải là một việc đơn giản, không thể hoàn tất trong một sớm một chiều vì nó còn phụ thuộc vào toàn bộ nền kinh tế nói chung. Nhưng nếu không được giải quyết sớm thì ngành dệt may lại mất đi một lợi thế quan trọng. Trong thời điểm hiện nay, nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới và phải đối mặt với một môi trường cạnh tranh gay gắt. Nếu chúng ta để mất lợi thế trong cạnh tranh thì có thể bị mất thị trường. Do đó, đây là một vấn đề quan trọng, đòi hỏi cần được quan tâm giải quyết kịp thời. 1.1.2.3. Ngành dệt may đã có truyền thống lâu đời tại Việt Nam Lịch sử đã chứng minh Việt Nam là một trong những cái nôi của loài người và nghề dệt vải đã xuất hiện ở Việt Nam từ hàng nghìn năm nay.Tuy nhiên, nghề ươm tơ, dệt vải ở Việt Nam từ xa xưa chỉ là việc làm tự phát để đáp ứng cho nhu cầu thiết yếu nhất của cá nhân và gia đình. Các tư liệu về lịch sử cho thấy ngành dệt đã phôi thai hình thành từ thế kỷ thứ bảy ở vùng châu thổ sông Hồng. Tại đây đã hình thành các vùng nuôi tằm như Hưng Yên, Thái Bình. Cây bông cũng được trồng tại các vùng cao miền núi phía bắc Việt Nam và một số tỉnh như Ninh Thuận, Đồng Nai. Nguyên Phi ỷ Lan thời Lý Chính là người khởi xướng đưa nghề ươm tơ dệt vải trở thành nghề truyền thống của Việt Nam, tạo bước mở cho ngành dệt may phát triển mạnh mẽ sau này. Chúng ta đã có những làng dệt nổi tiếng: Tích Sài, Bái Ân, Yên Thái, Nghĩa Đô. Những làng dệt ven Hồ Tây này đã nổi tiếng ngay từ thời Lý, Trần. Đến năm 1890, việc thực dân Pháp xây dựng nhà máy dệt Nam Định đã đánh dấu sự phát triển của công nghiệp dệt tại Việt Nam. Từ năm 1954, công nghiệp dệt may đã phát triển cao hơn, đặc biệt phát triển mạnh mẽ ở miền nam với công nghệ máy móc khá hiện đại của châu Âu và tại miền Bắc với công nghệ của Trung Quốc, Liên Xô, Đông Âu. Hoà bình lập lại năm 1975, theo đường lối đổi mới của Đảng, công nghiệp dệt may thời gian này ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng trong cơ cấu phát triển các ngành công nghiệp của Việt Nam. Hiện nay các sản phẩm dệt may Việt Nam đã vươn ra thị trường nước ngoài, trong đó có thị trường của các nước đã phát triển như Nhật Bản, EU, Mỹ và một số nước khác trong khối SNG và Đông Âu. Yếu tố truyền thống luôn là lợi thế lớn trong quá trình phát triển của công nghiệp dệt may Việt Nam. 1.1.2.4.Xu hướng dịch chuyển ngành dệt may từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam Công nghiệp may mặc đã hoàn thành vai trò lịch sử ở các nước công nghiệp phát triển. Với ưu điểm vốn ít, công nghệ đơn giản, thời gian thu hồi vốn nhanh, ít rủi ro, ngành may mặc một thời là ngành kinh tế được các hãng sản xuất ở các nước công nghiệp coi trọng. Nhưng, cùng với thay đổi về dân số và mức sống, những ngành nghề có chi phí nhân công cao đã không còn vị trí trong chiến lược phát triển của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi thế cân bằng của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế. Một loạt ngành công nghiệp mới ra đời đang phát triển mạnh tại các nước công nghiệp hàng đầu. Và tất yếu đã diễn ra sự dịch chuyển có tính toàn cầu những ngành sử dụng nhiều nhân công từ các nước phát triển sang các nước công nghiệp mới và ngày nay tiếp tục chuyển sang các nước đang phát triển. Và may mặc là một trong những ngành đó. Quá trình phát triển của ngành dệt may thế giới đồng thời cũng là quá trình chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang các khu vực kém phát triển hơn do lợi thế so sánh. Điều này không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở các nước phát triển mà nó đã tiến đến một giai đoạn cao hơn là sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng và giá trị cao, chứa nhiều hàm kượng trí tuệ, công nghiệp cao. Công nghiệp dệt may bắt đầu tại Anh vào thế kỷ thứ 18 và tại đó đã diễn ra sự chuyển dịch lần thứ nhất từ nước Anh sang các nước châu Âu. Sự chuyển dịch lần thứ hai là từ châu Âu sang Nhật Bản vào những năm 1950 trong thời kì hậu chiến thế giới lần thứ hai. Từ những năm 1960, khi chi phí sản xuất ở Nhật tăng cao và thiếu thốn nguồn lao động, công nghiệp dệt may lại được dịch chuyển lần thứ ba sang các nước công nghiệp mới (NICS) ở châu á như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc. Cho đến những năm 1980, khi các nước Đông Nam á dần dần chuyển sang sản xuất các mặt hàng có công nghệ kỹ thuật cao hơn như ô tô, điện lạnh, điện tử, thì lợi thế so sánh của ngành dệt may mất đi, song song với quá trình đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài, các nước NICS và các nước phát triển đã buộc phải dịch chuyển ngành này sang các nước đang phát triển như ASEAN, Trung Quốc và các nước Nam á. Năm 1987, trong các nước cung cấp hàng may lớn của thế giới đã có 3 nước của khu vực này, đó là Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan. Đến năm 2001, 8 trong 15 nước và vùng lãnh thổ đứng đầu thế giới về cung cấp hàng may mặc thuộc châu á là: Trung Quốc (36,5 tỷ USD), Hồng Kông (23,45 tỷ USD - kể cả tái xuất khẩu), ấn Độ (6,03 tỷ USD), Bangladesh (5,11 tỷ USD), Inđônêsia (4,53 tỷ USD), Trung Quốc (4,31 tỷ USD), Thái Lan (3,58 tỷ UĐS), và Đài Loan (2,48tỷ USD). Châu Âu, quê hương của ngành công nghiệp may mặc, giờ đây đã ngừng việc sản xuất trên quy mô lớn hàng phổ dụng để đi vào thiết kế hàng thời trang cao cấp. Ngày nay trong danh mục các nước hàng đầu về sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của thế giới không thấy bất kì tên một nước công nghiệp phát triển nào nữa, mặc dù sản phẩm mang tên các hãng lâu đời của họ lại chiếm tỷ trọng khá lớn trên thị trường thế giới. Việc đặt hàng may tại các nước đang phát triển đã trở thành phương thức phổ biến. Nhờ đó, châu á được coi như một trung tâm sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của thế giới. Là nước đi sau, Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc kế thừa các thành tựu của các nước công nghiệp phát triển. Bởi vậy xu hướng dịch chuyển ngành dệt may từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, nơi có ưu thế cạnh tranh về nguồn lao động và giá nhân công đã và đang tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển công nghiệp dệt may. Như vậy quá trình dịch chuyển của ngành công nghiệp dệt may là tất yếu. Do vậy, tận dụng được quá trình này là một lợi thế và điều kiện cơ bản phát triển công nghiệp dệt may trong thời gian tới. Điều cần thiết là chúng ta phải thực hiện các chính sách, biện pháp phù hợp, một mặt tiếp nhận nhanh chóng quá trình dịch chuyển ngành từ các nước, mặt khác phải tích cực đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, đầu tư khoa học công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, sản phẩm cao cấp như trong giai đoạn phát triển cao của ngành dệt may tại các nước phát triển. 1.1.2.5. Sự phù hợp của ngành dệt may với nền kinh tế Việt Nam Công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư không lớn, công nghiệp không quá phức tạp, khả năng thu hồi vốn nhanh, lao động của ngành dệt may lại dễ đào tạo nên việc tổ chức sản xuất các doanh nghiệp dệt may theo mô hình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất phù hợp với điều kiện về địa lý, kinh tế và xã hội của Việt Nam. Đây cũng chính là lợi thế cho ngành dệt may Việt Nam phát triển trong thời gian tới. 1.1.3. Vị trí và vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế Việt Nam Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành công nghiệp dệt may thời gian qua đã có sự phát triển vượt bậc, giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế ngành nói riêng và nền kinh tế nói chung. Dệt may nằm trong số các mặt hàng đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao là dầu thô, dệt may, hải sản, dầy dép, cao su, cà phê, hạt điều và chè; là mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai chỉ đứng sau dầu thô. Giá trị sản lượng hàng hoá chiếm tỷ lệ trên 8% giá trị sản lượng trên toàn ngành công nghiệp và chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Vì vậy dệt may đã, đang và sẽ trở thành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn có đóng góp rất lớn vào sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Ngay từ khi ra đời, ngành dệt may và sản phẩm của ngành vẫn giữ một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, trong các nhu cầu cơ bản nhất của con người về ăn - mặc - ở - đi lại, như thế cũng đã thấy vai trò không thể thiếu được của ngành. Hơn thế nữa, ngành dệt may còn thông qua giá trị kinh tế lớn bổ sung vào tổng thu nhập quốc dân và ngân sách quốc gia hàng năm để nâng cao đời sống kinh tế - xã hội về nhiều mặt. Những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu của ngành liên tục tăng và đứng trong nhóm những sản phẩm có đóng góp ngoại tệ lớn nhất. Năm 2000, toàn ngành mang về cho nhà nước 1892 triệu USD, năm 2001: 2000 triệu USD, năm 2002: 2751 triệu USD, năm 2003: 3600 triệu USD, năm 2004 ước là 4319 triệu USD. Đối với một nước có dân số khoảng 80 triệu người, có nguồn lao động dồi dào mà đặc trưng của ngành dệt may là cần nhiều lao động nhưng lại không phải đào tạo quá công phu cầu kỳ và đòi hỏi yếu tố trí tuệ cao; mặt khác với nhu cầu đòi hỏi về chất lượng mẫu mã sản phẩm cao như hiện nay thì trình độ chuyên môn hoá sản phẩm ngày càng được nâng cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu cần thiết có những khâu, công đoạn sản xuất đòi hỏi trình độ chuyên môn và hàm lượng chất xám cao, có những khâu lại chỉ đòi hỏi trình độ sản xuất nhất định, có những công đoạn trong sản xuất dệt may chỉ toàn đòi hỏi làm bằng chân tay là chủ yếu nhờ những đặc trưng riêng của ngành may mặc. Điêù này có thể giúp giải quyết đáng kể nhu cầu công ăn việc làm cho xã hội, đặc biệt là đối với lao động nữ. Thông qua việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, ngành dệt may còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, ổn định đời sống nhân dân và ngăn chặn hậu quả xã hội do nạn thất nghiệp gây ra. Theo dõi tăng trưởng của sản xuất, số lao động được sử dụng trong ngành cũng không ngừng tăng lên, ước tính toàn ngành hiện nay sử dụng khoảng trên 2 triệu lao động, chiếm trên 25% lao động toàn quốc. Hơn thế nữa là một ngành sản xuất mũi nhọn có mặt trên 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, chiếm trên 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; ngành dệt may không chỉ giữ vị trí nhất định tạo ra tích luỹ vốn trong quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là đối với chiến lược mở rộng thương mại quốc tế và kinh tế đối ngoại - một chiến lược đúng đắn cho xu hướng Toàn cầu hoá - Quốc tế hoá đời sống kinh tế. 1.2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may 1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành công nghiệp dệt may thời gian qua đã có sự phát triển vượt bậc, có vai trò quan trong trong công cuộc CNH - HĐH đất nước, có khối lượng sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu lớn. Thật vậy, trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã chứng tỏ là ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm, vươn lên đứng thứ hai trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu sau dầu khí. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu đạt 3600 triệu USD gấp 6,5 lần so với năm 1994, năm 2004 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 4319 triệu USD gấp 7,8 lần so với năm 1994. Trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2004 xấp xỉ 1,2 lần và tăng 19,9 lần so với năm 2003. Năm 2004, hàng dệt may Việt Nam đã xuất khẩu sang khoảng 174 thị trường, trong đó nhiều nhất là Mỹ (trên 2 tỷ USD), EU (0,9 tỷ USD), Nhật Bản (0,55 tỷ USD), các thị trường khác (0,6 tỷ USD). Theo hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) dự kiến kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Mỹ trong năm 2005 sẽ là 2,7 - 2,75 tỷ USD, tương đương năm 2004. Dự tính mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này năm 2005 sẽ là 5183 triệu USD. Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu của nước ta từ năm 1994 trở lại đây: Đơn vị : triệu USD Năm Kim ngạch 1994 550 1995 750 1996 1150 1997 1320 1998 1450 1999 1740 2000 1892 2001 2000 2002 2752 2003 3600 Ước 2004 4319 Kế hoạch 2005 5183 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ thương mại, Tổng công ty VINATEX 1.2.2.Mặt hàng xuất khẩu Với năng lực sản xuất hiện nay, Việt Nam có thể sản xuất hàng trăm mặt hàng từ lụa, vải bạt, đến quần áo dệt kim, quần áo may sẵn, thảm len, thảm đay, bít tất, khăn bông,… Tuy nhiên, năng lực sản xuất và khả năng tiêu thụ của ta đối với mỗi mặt hàng này là khác nhau. Mặt hàng, chủng loại nào sản xuất nhiều hay ít còn phụ thuộc vào mặt hàng, chủng loại đó có được thị trường đón nhận hay không. Trong giai đoạn 1996 - 2000 và những năm đầu giai đoạn 2001 - 2005, ngành dệt may Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 20,86%/năm, vươn lên đứng thứ hai về kim ngạch sau ngành dầu khí. Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của ngành giữ được mức tăng trưởng khá. Đó là các loại vải lụa, bít tất, sợi và quần áo may sẵn. Riêng quần áo măy sẵn có tốc độ tăng khá cao: năm 1995 là 845 triệu USD, thì năm 1999 là 1.484 triệu USD và năm 2003 đã là 3.085 triệu USD và chiếm gần 85% tổng kim ngạch xuất khẩu của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100506.doc
Tài liệu liên quan