Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa 33 
KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ 
THƯƠNG TỔN TÂN SINH Ở NIÊM MẠC ỐNG TIÊU HÓA QUA NỘI SOI 
Lê Quang Nhân*, Võ Văn Hải** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của cắt niêm mạc qua nội soi (CNMQNS) và cắt bóc tách dưới niêm mạc 
qua nội soi (CBTDNMQNS) trong điều trị políp không cuống và ung thư sớm của dạ dày và đại - trực tràng. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả dọc. Chúng tôi thu thập và phân tích số liệu từ 88 trường hợp 
được CNMQNS và CBTDNMQNS dạ dày và đại - trực tràng qua nội soi trong thời gian từ 29/08/2007 đến 
03/06/2015 tại khoa Nội soi bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM. 
Kết quả: Có 12 bệnh nhân nam và 76 bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 47 tuổi. Trong đó có 
2 trường hợp viêm mạn tính, 43 trường hợp polyp và u tuyến, 21 trường hợp nghịch sản nhẹ và vừa, 11 trường 
hợp nghịch sản nặng, 11 trường hợp ung thư sớm ở dạ dày và đại - trực tràng. Thời gian ổ loét lành sẹo trung 
bình là 5 tuần. Kết quả qua theo dõi trong 7 năm 4 tháng không thấy có tái phát ung thư cũng như có di căn. 
Kết luận: Những kết quả của chúng tôi cho thấy PPCNMQNSOM hiệu quả và an toàn trong điều trị políp 
không cuống và ung thư sớm ống tiêu hóa. 
ABSTRACT 
PRELIMINARY EXPERIENCES IN DIAGNOSIS AND ENDOSCOPIC TREATMENT 
OF GI NEOPLASM 
Le Quang Nhan, Vo Van Hai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 5 - 2015: 33 - 38 
Objectives: To assess the initial results of endoscopic mucosal resection (EMR) and endoscopic submucosal 
dissection (ESD) in treatment of non-pedunculated polyps and early cancers of stomach and colorectum. 
Method: This is a observation study of 88 patients. These patients were treated by EMR and ESD from 
29/08/2007 to 03/06/2015 in the endoscopy department, University Medical Center of HCM city. 
Results: There were 12 males and 76 females with mean age 47. Of them, there were 2 cases of chronic 
gastritis, 43 cases of polyp and adenoma, 21 cases of high and moderately grade dysplasia, 11 cases of low grade 
dysplasia, 11 case of early gastric cancer and early cancers of colorectum. Mean healing ulcer after EMR was 5 
weeks. The overall results were promising and no recurrence and metastasis of cancer after 7 years and 4 months 
follow-up. 
Conclusion: Our study shows that EMR and ESD can be used effective and safe in treatment of non-
pedunculated polyps and early cancers of stomach and colorectum. 
Keywords: Endoscopic mucosal resection (EMR), endoscopic submucosal dissection (ESD), early gastric 
cancer, early colorectal cancer, non-pedunculated gastrointestinal polyp. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cắt niêm mạc qua nội soi (CNMQNS) được 
tiến hành từ thập niên 1970, lúc đầu phương 
pháp này được xem như là “sinh thiết mẫu lớn”, 
vào thập niên 1990, các bác sĩ nội soi người Nhật 
là người đầu tiên áp dụng thành công phương 
* Khoa Nội soi - Bệnh viện Đại học Y Dược Tp.HCM ** Bộ môn Giải Phẫu học – ĐH Y Dược Tp.HCM 
Tác giả liên lạc: TS BS Lê Quang Nhân, ĐT: 0908853389, Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 
Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa 34 
pháp này trong điều trị ung thư thực quản sớm. 
CNMQNS được ứng dụng rộng rãi trên thế giới 
trong điều trị các sang thương tiền ung thư và 
các ung thư niêm mạc ống tiêu hóa. Từ những 
ưu điểm và nhược điểm của CNMQNS, các bác 
sĩ nội soi người Nhật đã đưa ra thêm 1 phương 
pháp mới là cắt bóc tách dưới niêm mạc qua nội 
soi (CBTDNMQNS) nhằm giúp cắt các khoanh 
niêm mạc lớn hơn so với CNMQNS. Có rất 
nhiều nghiên cứu cho thấy ung thư sớm đường 
tiêu hóa có tỷ lệ di căn hạch rất thấp(22) và 
CNMQNS cũng như CBTDNMQNS rất hữu ích 
trong điều trị ung thư sớm với kết quả ban đầu 
tương đương với phẫu thuật nhưng lại có nhiều 
ưu điểm như bệnh nhân hồi phục sớm, không 
cần nằm viện, ít đau, thẩm mỹ... 
Hiện tại chưa có nghiên cứu với thời gian dài 
hơn 5 năm được báo cáo về kết quả điều trị 
thương tổn tân sinh ở niêm mạc đường tiêu hóa 
qua nội soi, trong đó có cả điều trị ung thư sớm 
đường tiêu hóa qua nội soi. Đây là lý do chúng 
tôi thực hiện nghiên cứu này. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu tổng quát 
Đánh giá kết quả sớm của CNMQNS và 
CBTDNMQNS trong điều trị políp không cuống 
và ung thư sớm của dạ dày và đại - trực tràng. 
Mục tiêu cụ thể 
Đánh giá biến chứng sau CNMQNS và 
CBTDNMQNS (đau, chảy máu, thủng gây viêm 
phúc mạc...). 
Đánh giá tái phát tại chổ và di căn trong 7 
năm 4 tháng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả dọc. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân trên 15 tuổi được chẩn 
đoán políp không cuống hoặc ung thư sớm của 
dạ dày và đại - trực tràng có chỉ định CNMQNS 
và CBTDNMQNS. 
Tiêu chuẩn chọn vào mẫu nghiên cứu 
Bệnh nhân trên 15 tuổi. 
Bệnh nhân có políp không cuống, có kết quả 
giải phẫu bệnh là políp tuyến ống có hoặc không 
có nghịch sản và bướu nhung mao kích thước 
nhỏ hơn 2 cm. 
Bệnh nhân có ung thư niêm mạc biệt hóa tốt 
có kích thước nhỏ hơn 2 cm và ung thư niêm 
mạc biệt hóa vừa có kích thước nhỏ hơn 1 cm. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân nhỏ hơn 15 tuổi và lớn hơn 70 
tuổi, không hợp tác. 
Bệnh nhân có bệnh mãn tính: tiểu đường 
không điều trị hoặc điều trị chưa ổn định, lớn 
tuổi suy kiệt, di chứng tai biến mạch máu não, xơ 
gan có rối loạn đông máu suy tim, viêm gan 
cấp 
Políp có cuống hoặc không cuống kích 
thước hơn 2 cm, bướu nhung mao kích thước 
lớn hơn 2 cm. 
Ung thư đã qua lớp dưới niêm mạc hoặc có 
di căn hạch, gan, xoang phúc mạc... 
Cách tiến hành 
Bệnh nhân có chỉ định CNMQNS và 
CBTDNMQNS với các kết quả CEA trong máu, 
siêu âm bụng, CT bụng có cản quang trong giới 
hạn bình thường. 
Trong khi nội soi, sang thương được định vị 
giới hạn bằng cách bơm chất màu xanh méthilen 
lên bề mặt niêm mạc vùng có sang thương. 
Dùng đầu snare đánh dấu giới hạn sang thương. 
Chích vào dưới niêm dung dịch nước muối sinh 
lý hoặc dung dịch glycerol pha thêm với indigo 
carmine giúp tránh thủng thành dạ dày khi tiến 
hành cắt niêm mạc, đây là biến chứng cần can 
thiệp phẫu thuật cấp cứu(15,17). Quan sát nếu thấy 
phần niêm mạc có sang thương phồng to lên và 
sang thương di động lên cao hơn niêm mạc bình 
thường xung quanh nghĩa là sang thương chỉ 
khu trú ở niêm mạc có thể cắt qua nội soi ống 
mềm được an toàn. Nếu phần niêm mạc này 
không di động cao hơn niêm mạc bình thường 
* Thạc sĩ. Khoa Ngoại 3 bệnh viện Đại học Y Dược Tp.HCM 
** Phó Giáo Sư. Tiến sĩ. Trưởng khoa Nội soi bệnh viện Đại học Y Dược Tp.HCM. Bộ môn Ngoại 
Tổng quát Đại học Y Dược Tp.HCM. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa 35 
xung quanh, sang thương đã xâm lấn sâu hơn 
lớp niêm và loại bệnh nhân bị loại khỏi lô nghiên 
cứu. 
Dùng dụng cụ cap và snare cắt khoanh niêm 
mạc có sang thương hoặc dùng dây thun thắt tạo 
giả políp và cắt bằng snare. Hoặc dùng dao có 
đầu sứ (IT knife) cắt khoanh niêm mạc có sang 
thương. 
Sau cắt và lấy phần niêm mạc ra khỏi dạ dày, 
kiểm tra đáy mặt cắt lại: nếu vẫn còn màu xanh, 
mặt cắt an toàn, chưa thủng thành dạ dày. Nếu 
mặt cắt có chổ xanh chổ trắng, nguy cơ cắt qua 
lớp dưới niêm, cần theo dõi sát hàng ngày tình 
trạng thủng dạ dày. Sau đó sang thương được cố 
định trong dung dịch formol trung tính 10% và 
gửi phòng giải phẫu bệnh của bệnh viện đại học 
Y Dược TP HCM khảo sát từng lát cắt cách nhau 
2 mm. Ngày thứ nhất và ngày thứ hai sau 
CNMQNS và CBTDNMQNS, bệnh nhân ăn 
cháo và súp, uống thuốc chống tiết dịch vị. Sau 
đó ăn thức ăn đặc dần dần kèm uống thuốc 
chống tiết dịch vị liên tục cho đến khi ổ loét tại 
chổ niêm mạc bị cắt lành sẹo. 
Theo dõi bệnh nhân tái khám: Nhằm đánh 
giá tái phát ung thư tại chổ và di căn trong 12 
tháng đầu tiên, bệnh nhân được hẹn tái khám 
sau CNMQNS và CBTDNMQNS một tuần, hai 
tuần, một tháng và 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng. 
Bệnh nhân tái khám sẽ được khảo sát: nội soi 
thực quản dạ dày tá tràng, siêu âm bụng tổng 
quát, x quang ngực thẳng, đo lượng CEA và CA-
19.9 trong máu, MRI bụng chậu có cản từ hoặc 
CT bụng có cản quang. Sau đó sẽ được hẹn tái 
khám mỗi năm / lần. 
Nếu có ung thư tái phát tại chổ hoặc di căn 
hạch, chuẩn bị mổ mở hoặc mổ nội soi, lúc này vị 
trí sang thương được đánh dấu bằng nội soi dạ 
dày hoặc nội soi đại tràng chích chất màu vào 
dưới niêm mạc dạ dày. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ 29/08/2007 đến 03/06/2015, 
tại khoa Nội soi bệnh viện Đại học Y Dược TP 
HCM, chúng tôi đã thực hiện CNMQNS và 
CBTDNMQNS cho 12 bệnh nhân nam và 76 
bệnh nhân nữ. 
Tuổi trung bình của bệnh nhân: 47,6 ± 11,5 
tuổi. 
Sang thương: 
* Đặc điểm về đại thể của sang thương: 
Kích thước trung bình: 11,2 ± 4,3 mm. 
Políp không cuống: 43 trường hợp. 
U niêm mạc dạ dày và đại - trực tràng: 45 
trường hợp. 
* Vị trí sang thương: 
Dạ dày: 73 trường hợp. 
Đại tràng: 12 trường hợp. 
Trực tràng: 3 trường hợp. 
* Kết quả giải phẫu bệnh sau khi thực hiện 
CNMQNS và CBTDNMQNS ở dạ dày: 
Viêm dạ dày mạn tính: 2 trường hợp. 
Políp tăng sản: 40 trường hợp. 
Políp tuyến ống: 2 trường hợp. 
U tuyến: 1 trường hợp. 
Nghịch sản nhẹ và vừa: 17 trường hợp. 
Nghịch sản nặng: 4 trường hợp. 
Carcinôm tuyến biệt hóa rõ: 3 trường hợp. 
Carcinôm tuyến biệt hóa vừa ở niêm mạc: 3 
trường hợp. 
Carcinôm tuyến biệt hóa vừa ở mô đệm: 1 
trường hợp. 
* Kết quả giải phẫu bệnh sau khi thực hiện 
CNMQNS và CBTDNMQNS ở trực tràng: 
Nghịch sản vừa: 1 trường hợp. 
Nghịch sản nặng: 1 trường hợp. 
Carcinôm tuyến biệt hóa vừa: 1 trường hợp. 
* Kết quả giải phẫu bệnh sau khi thực hiện 
CNMQNS và CBTDNMQNS ở đại tràng chậu 
hông: 
Nghịch sản nhẹ và vừa: 3 trường hợp. 
Nghịch sản nặng: 4 trường hợp. 
Carcinôm tuyến biệt hóa vừa: 2 trường hợp. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 
Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa 36 
* Kết quả giải phẫu bệnh sau khi thực hiện 
CNMQNS và CBTDNMQNS ở đại tràng ngang: 
Nghịch sản nặng: 2 trường hợp. 
Carcinôm tuyến biệt hóa vừa: 1 trường hợp. 
Di căn hạch và gan, xoang phúc mạc: không 
ghi nhận di căn qua siêu âm bụng, MRI bụng và 
chậu có cản từ, CT có cản quang. 
Thời gian thực hiện trung bình: 51,2 ± 30,5 
phút. 
Thời gian ổ loét lành sẹo trung bình: 5,5 ± 1,7 
tuần. Các bệnh nhân đều uống thuốc ức chế bơm 
proton và sucralfate với liều như nhau. 
Không có trường hợp nào bị ung thư tái phát 
tại chỗ và di căn trong 7 năm 4 tháng. 
BÀN LUẬN 
Theo Yeh và Triadafilopoulos, chúng ta có 
thể chích dưới niêm an toàn với nước muối sinh 
lý, glyceol, hyaluronic acid, dung dịch chứa 
fibrinogen(23). Nhiều tác giả khác cũng đề cập đến 
sự an toàn của phương pháp cắt niêm mạc phụ 
thuộc vào việc chích dưới niêm mạc, vì dung 
dịch được chích dưới niêm mạc sẽ có tác dụng 
giống như lớp đệm bảo vệ lớp cơ bên dưới 
không bị tổn thương trong quá trình cắt đốt 
bằng dòng điện đơn cực(1,3-8,10, 12-21,23,24). Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, một số bệnh nhân 
được chích dưới niêm với nước muối sinh lý, 
nhược điểm khi dùng dung dịch này là đặc tính 
dễ bị hấp thu nhanh, nếu thời gian thực hiện kỹ 
thuật lâu cần phải chích thêm dưới niêm. Trong 
khi đó Glycerol có thời gian tồn tại lâu hơn trong 
lớp dưới niêm mạc, do đó Glycerol thích hợp 
hơn trong CBTDNMQNS. 
Trong nhuộm màu, Indigo carmine thường 
được dùng do tính không được hấp thu bởi niêm 
mạc ống tiêu hóa. Xanh méthilen ít được dùng vì 
đặc tính dễ hấp thu bởi niêm mạc ống tiêu hóa. 
Cả hai dung dịch này được đánh giá an toàn khi 
sử dụng. 
Kakushima nhận thấy niêm mạc được cắt và 
bóc tách dưới niêm có kích thước trung bình 34,7 
mm sẽ lành sẹo trong vòng 8 tuần, trong suốt 8 
tuần bệnh nhân uống thuốc ức chế bơm proton 
và sucralfate(11). Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
ổ loét có kích thước trung bình 9,5 mm cần trung 
bình 5 tuần để lành sẹo. Sở dĩ có sự khác biệt là 
do sự khác biệt về kích thước sang thương, kích 
thước ổ loét và kỹ thuật. Nếu sang thương nhỏ 
và ổ loét nhỏ nông sau thực hiện 
PPCNMQNSOM, ổ loét sẽ lành sẹo nhanh. 
Ngược lại nếu sang thương to và ổ loét to sâu 
sau thực hiện phương pháp cắt và bóc tách dưới 
niêm, ổ loét sẽ lành sẹo lâu hơn. Kakushima 
thống kê rằng bệnh nhân uống thuốc ức chế 
bơm proton và sucralfate sẽ giúp cho ổ loét lành 
sẹo nhanh và không biến chứng trong vòng 8 
tuần sau thực hiện phương pháp cắt và bóc tách 
dưới niêm(11). Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
các bệnh nhân đều uống giống như vậy và trong 
quá trình theo dõi chúng tôi nhận thấy diễn tiến 
ổ loét lành nhanh, không có biến chứng chảy 
máu hoặc thủng. 
Các tác giả nước ngoài áp dụng siêu âm qua 
nội soi và đánh giá của giải phẫu bệnh sau cắt u 
niêm mạc để đánh giá sự xâm lấn của tế bào ung 
thư vào lớp dưới niêm, lớp cơ và tiên lượng có di 
căn hạch(2). Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 
trường hợp u niêm mạc dạ dày có kết quả sinh 
thiết nghịch sản nhẹ, chúng tôi cắt u niêm mạc 
bằng dụng cụ cap và kết quả sinh thiết là ung 
thư niêm mạc dạ dày. Khi tái khám sau 3 tuần, 
bệnh nhân được cho chỉ định CT scan, kết quả 
CT là không tái phát, không di căn. Hiện bệnh 
nhân đã được theo dõi 7 năm 4 tháng, không có 
tái phát tại chỗ và di căn. 
Gotoda ghi nhận có các biến chứng sau 
CNMQNS như đau, chảy máu, thủng(9). Trong 
đó đau thường ở mức độ nhẹ và sẽ hết sau khi 
bệnh nhân uống thuốc ức chế bơm proton và 
sucralfate. Chảy máu là biến chứng thường gặp 
nhất với tần suất 8%, chúng ta có thể cầm máu 
bằng kẹp clip hoặc đốt bằng kềm sinh thiết. 
Thủng ống tiêu hóa là biến chứng ít gặp trong 
CNMQNS, nhưng gặp nhiều hơn trong 
CBTDNMQNS, nếu có biến chứng này xảy ra thì 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa 37 
lổ thủng nhỏ, chúng ta có thể khâu lổ thủng này 
bằng kẹp clip(9). 
Trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng 
cần phải chú ý các sang thương đơn độc kèm có 
bất thường về cấu trúc ống tuyến cũng như hình 
dạng và phân bố các vi mạch máu bề mặt đường 
tiêu hóa, nhất là ở dạ dày. Trước khi chỉ định 
điều trị qua nội soi, chúng ta cần phải đánh giá 
giai đoạn ung thư bằng CT scan để tránh các 
trường hợp đã quá chỉ định điều trị qua nội soi. 
Nếu có chỉ định, tùy kích thước sang thương mà 
chúng ta sẽ thực hiện CNMQNS hoặc 
CBTDNMQNS. 
Hình 1: Hình ảnh sang thương ung thư dạ dày sớm 
dạng 0 – I ở vách trước hang vị 
 Hình 2: Sau cắt niêm mạc chứa u qua nội soi. 
Hình 3: Hình ảnh giải phẫu bệnh cho thấy các tế bào dị dạng, nhân quái, tăng sắc. Đây là hình ảnh của 
carcinôm tuyến biệt hóa rõ, không có tế bào ác tính ở bờ phẫu thuật 2 bên và bên dưới. 
KẾT LUẬN 
Những kết quả sớm của chúng tôi cho thấy 
CNMQNS và CBTDNMQNS hiệu quả và an 
toàn trong điều trị políp không cuống và ung 
thư sớm của dạ dày và đại - trực tràng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abe N, Mori T, Takeuchi H, et al. (2005). Laproscopic lymph 
node dissection after endoscopic submucosal dissection: a 
novel and minimally invasive approach to treating early-stage 
gastric cancer. Am J Surg 190: 496 – 503. 
2. Cantor MJ, Davila RE, Faigel DO (2006). Yield of tissue 
sampling for subepithelial lesions evaluated by EUS: a 
comparison between forceps biopsies and endoscopic 
submucosal resection. Gastrointest Endosc 64: 29 –34. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 
Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa 38 
3. Choi IJ, Kim CG, Chang HJ, et al. (2005). The learning curve 
for EMR with circumferential mucosal incision in treating 
intramucosal gastric neoplasm. Gastrointest Endosc 62: 860 – 
65. 
4. Conio M, Cameron A.J, Chak A, et al. (2005). Endoscopic 
treatment of high-grade dysplasia and early cancer in Barrett’s 
oesophagus. Lancet Oncol 6: 311 – 21. 
5. Conio M, Ponchon T, Blanchi S, et al. (2006). Endoscopic 
Mucosal Resection. Am J Gastroenterol 101: 653 – 63. 
6. Ell C, May A, Pech O, et al. (2007). Curative endoscopic 
resection of early esophageal adenocarcinomas (Barrett’s 
cancer). Gastrointest Endosc 65: 3 – 9. 
7. Fujishiro M, Yahagi N, Kashimura K, et al. (2005). Gastrointest 
Endosc 2005) 62: 933 – 42. 
8. Fujishiro M, Yahagi N, Yahagi N, et al. (2006). Successful 
outcomes of a novel endoscopic treatment for GI tumors: 
endoscopic submucosal dissection with a mixture of high-
molecular-weigh hyaluronic acid, glycerin, and sugar. 
Gastrointest Endosc 63: 243 – 49. 
9. Gotoda T (2006). Endoscopic resection of early gastric cancer: 
the Japanese perspective. Curr Opin Gastroenterol 22: 561 – 
69. 
10. Ikeda K, Raven A.F, Mosse A, et al. (2005). Endoscopic full-
thickness resection with sutured closure in a porcine model. 
Gastrointest Endosc 62: 122 – 29. 
11. Kakushima N, Yahagi N, Fujishiro M, et al. (2004). The 
healing process of gastric artificial ulcers after endoscopic 
submucosal dissection. Digestive Endosc 16: 327 – 31. 
12. Monkewich G.J, Haber G.J (2005). Novel endoscopic therapies 
for gastrointestinal malignancies: endoscopic mucosal 
resection and endoscopic ablation. Med Clin N Am 89: 159 - 
86. 
13. Jameel J.K.A, Pillinger S.H, Moncur P, et al. (2006). Endoscopic 
mucosal resection (EMR) in the management of large colo-
rectal polyps. Colorectal Dis 8, 497 – 500. 
14. Rajan E, Gostout C.J, Feitoza A.B, et al. (2004). Widespread 
EMR: a new technique for removal of large areas of mucosa. 
Gastrointest Endosc 60: 623 – 27. 
15. Reshamwala P.A, Darwin P.E (2006). Endoscopic 
management of early gastric cancer. Curr Opin Gastroenterol 
22: 541 – 45. 
16. Saito Y, Emura F, Matsuda T, et al. (2005). A new sinker-
assissted endoscopic submucosal dissection for colorectal 
cancer. Gastrointest Endosc 62: 297 – 301. 
17. Sumiyama K, Gostout C.J, Rajan E, et al. (2007). Endoscopic 
full-thickness closure of large gastric perforations by use of 
tissue anchors. Gastrointest Endosc 65: 134 – 139. 
18. Tanabe S, Koizumi W, Mitomi H, et al. (2004). Usefulness of 
EMR with an oblique aspiration mucosectomy device 
compared with strip biopsy in patients with superficial 
esophageal cancer. Gastrointest Endosc 59: 558 – 563. 
19. Watabe H, Yamaji Y, Okamoto M, et al. (2006). Risk 
assessment for delayed hemorrhagic complication of colonic 
polypectomy: polyp-related factors and patient-related factors. 
Gastrointestinal endoscopy 64: 73 – 78. 
20. Watanabe K, Ogata S, Kawazoe S, et al. (2006). Clinical 
outcomes of EMR for gastric tumors: historical pilot 
evaluation between endoscopic submucosal dissection and 
conventional mucosal resection. Gastrointest Endosc 63: 776 – 
782. 
21. Yamamoto H (2005). Endoscopic therapy of early gastric 
cancer. Best Practice & Research Clinical Gastroenterology 19 
(6): 909 – 26. 
22. Yamao T, Shirao K, Ono H, et al. (1996). Risk factors for lymph 
node metastasis from intramucosal gastric carcinoma. Cancer 
77: 602-6. 
23. Ye B.D, Cheon J.H, Choi K.D, et al. (2006). Omeprazole may 
be superior to famotidine in the management of iatrogenic 
ulcer after endoscopic mucosal resection: a prospective 
randomized controlled trial. Aliment Pharmacol Ther 24: 837 
– 43. 
24. Yeh R.W, Triadafilopoulos G.T (2005). Submucosal 
injection: safety cushion at what cost ?. Gastrointest 
Endosc 62: 943 – 45. 
25. Yokoi C, Gotoda T, Hamanaka H, et al. (2006). 
Endoscopic submucosal dissection allows curative 
resection of locally recurrent early gastric cancer after 
prior endoscopic mucosal resection. Gastrointest Endosc 
64: 212 – 18. 
Ngày nhận bài báo: 03/09/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/9/2015 
Ngày bài báo được đăng: 02/10/2015