Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of the south East Asian Nations) 
viết tắt là ASEAN, thành lập 8/8/1967, với 5 thành viên sáng lập, hiện nay gồm 11 
nước. Gồm: Brunei, Campuchia, Đông ti mo, Inđônêsia, Lào, Malaysia, Myanmar, 
Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Sigapore. Diện tích: 4.492.443 km
2
, chiếm 14,l% 
lãnh thổ Châu Á và 3,3% diện tích toàn thế giới. Dân số (2004) là 548,2 triệu và 8,6% 
thế giới.
ASEAN có vị trí đặc biệt quan trọng trong bản đồ kinh tế, chính trị quốc tế, nằm 
án ngữ trên con đường giao thông chiến lược quan trọng giữa hai đại dương lớn (Thái 
Bình Dương và Ấn Độ Dương). Các nước này là đầu mối các con đường hàng hải, 
hàng không quốc tế. Với nguồn rừng nhiệt đới hấp dẫn, các nước này có nguồn tài 
nguyên giàu có và đa dạng hiếm thấy trên quả đất, chiếm 83% sản lượng cao su tự 
nhiên; 72% thiếc; 84% dầu cọ; 80% sợi gai; 64% loại khác như gỗ, dầu mỏ, kim loại.
Khu vực này có nền văn hoá cổ xưa, phong phú đa dạng, là một trong những cái 
nôi của loài người. Với văn hoá Đông Sơn, tiếp là văn hoá Hoà Bình. Cách đây 5000 
đến 7000 năm khu vực này đã có đồ đồng phát triển, Đông Nam Á đã toả sáng rực rỡ, 
trên cơ sở đó Nhà nước đầu tiên ra đời sớm.
              
                                            
                                
            
 
            
                 55 trang
55 trang | 
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Kinh tế lượng - Chương VII: Kinh tế các nước asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1960) 
Cải tạo XHCN là công việc rất lớn và quan trọng. Trước hết Đảng đề ra chủ 
trương làm trong nông nghiệp trước, coi nông nghiệp là khâu quan trọng và là đột 
phá.Cải tạo XHCN là nhiệm vụ cơ bản trong cuộc cách mạng XHCN, mở đường cho 
sức sản xuất phát triển, cải tạo XHCN nhằm mục đích xây dựng quan hệ sản xuất mới 
XHCN.Trong đó mấu chốt là cải tạo quan hệ sở hữu tư nhân về TLSX, biến nó thành 
sở hữu XHCN dưới các hình thức đó là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. 
Ở miền Bắc nước ta, công cuộc cải tạo XHCN bao gồm cải tạo công thương 
nghiệp tư bản tư doanh, cải tạo nông nghiệp, cải tạo thủ công nghiệp và cải tạo tiểu 
thương. Trong đó cải tạo nông nghiệp là khâu chính, vì nông nghiệp chiếm vị trí rất 
quan trọng. Nông dân lao động là bộ phận sản xuất rất to lớn. 
Kết quả của cuộc cải tạo XHCN là hình thành các hợp tác xã ở nông thôn từ bậc 
thấp đến bậc cao.Các hợp tác xã mà chúng ta xây dựng được đó là các hình thức tập 
thể hoá lực lượng sản xuất, công hữu hoá sở hữu. Hợp tác hoá là một chính sách lớn 
song thể hiện nó trong công, nông, thương nghiệp có những sắc thái khác nhau. Cùng 
với sự ra đời của hợp tác xã nông nghiệp nhiều hợp tác xã tín dụng, thủ công nghiệp, 
mua bán cũng ra đời. Trong lĩnh vực công nghiệp bắt đầu quốc doanh hoá, nhà nước 
hóa. 
Kết quả, cuối năm 1960 công cuộc cải tạo XHCN ở miền Bắc căn bản hoàn 
thành. 85,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp theo hình thức thấp và 
quy mô nhỏ (33 ha ruộng đất, 68 hộ / HTX). 100% số hộ tư sản thuộc diện cải tạo, đã 
cải tạo. 87,9% số tiểu thương vào hợp tác xã, chuyển 11.000 nhân viên thương nghiệp 
sang sản xuất. 
Cải tạo XHCN ở miền Bắc những năm 1958-1960 chứa đựng những thành công 
lịch sử và những thất bại lịch sử. Thành công lớn nhất là thiết lập về căn bản cơ sở 
kinh tế XHCN, nếu không có nó thì không nói gì đến XHCN. Bản thân chế độ người 
bóc lột người căn bản xoá bỏ, mọi thành viên tự do học tập, lao động, sáng tạo trên nền 
tảng xã hội mới tốt hơn trước. 
Thiếu sót lớn nhất trong công cuộc cải tạo XHCN là: 
Tách rời lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, do nóng vội muốn có ngay lập 
tức XHCN nên đã nôn nóng thiết lập quan hệ sản xuất khi LLSX còn chưa đòi hỏi, 
chưa chín muồi. 
Cải tạo không gắn liền với sự sử dụng do đó hiệu quả kinh tế vẫn rất thấp. 
Cải tạo không gắn với xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nên sau nhiều năm 
cải tạo mà lực lượng sản xuất vẫn không phát triển được. 
* Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-/965). 
Có 5 nhiệm vụ cơ bản: 
 102
Một là, ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp, tích cực phát triển giao 
thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã. 
Hai là, hoàn thành công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và 
thương nghiệp nhỏ theo hướng phát triển quốc doanh và hợp tác. 
Ba là, tiến hành công tác tư tưởng, công tác cán bộ, công tác khoa học kỹ thuật. 
Bốn là, cải tạo một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động. 
Năm là, kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an 
ninh. 
Công nghiệp hoá là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH, 
mà kế hoạch 5 năm này chỉ thực hiện một bước nhằm xây dựng cơ sở vật chất bước 
đầu của CNXH. 
Chủ trương công nghiệp hoá của Đảng ta lúc này là “Ưu tiên phát triển công 
nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp 
nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp 
hiện đại”. 
Để thực hiện chủ trương này Nhà nước đã dành 48% số vốn đầu tư xây dựng cơ 
bản, trong đó 78% dành cho công nghiệp nặng. Với số vốn đó đã cho ra đời một số 
công trình: Khu gang thép Thái Nguyên, điện Uông Bí, hoá chất Việt Trì, đứa con đầu 
lòng của nền công nghiệp cơ khí là nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo. 
Nhiều phong trào thi đua rầm rộ trong thời kỳ này đó là: “Gió đại phong” (trên 
lĩnh vực nông nghiệp), “Sóng Duyên Hải” (lĩnh vực công nghiệp), “Cờ ba nhất” 
phong trào ba tốt trọng thương nghiệp, đó là những điển hình tiên tiến, những mô hình 
làm ăn mới có hiệu quả. 
Do đó đến năm 1964 giá trị sản lượng công nghiệp tăng 172% so với năm 1960, 
bình quân hàng năm tăng 14,6%. 
Nông nghiệp có bước phát triển khá: Giá trị sản lượng nông nghiệp 1964 đạt 
119% so với năm 1960, chăn nuôi tăng 22%, trồng trọt tăng 16,7%. Phong trào trồng 
cây gây rừng “Tết trồng cây” (do Hồ Chủ Tịch phát động từ 1960) được thực hiện tốt. 
Mạng lưới giao thông vận tải từ thành phố đến các địa phương được phát triển 
mạnh. 
Thương nghiệp, tài chính, tiền tệ và các loại dịch vụ khác hoạt động khá. Hình 
thức hợp tác xã đã bao trùm toàn bộ hoạt động dịch vụ, thương nghiệp. Hệ thống 
thương nghiệp dịch vụ, tư nhân bị xoá bỏ. Chủ nghĩa xã hội phi hàng hoá, phi thị 
trường đang được xác lập từng bước. 
- Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ngày 23 tháng l năm 1962 Bộ 
chính trị TW Đảng đã ra Nghị quyết về cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp tác xã, 
cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững 
chắc”. Đến cuối năm 1964 số hộ nông dân vào hợp tác xã lên đến 90,l%. Quy mô hợp 
tác xã lớn dần lên (85hộ, 49 ha gieo trồng). 
- Khu vực kinh tế quốc doanh đóng góp 45,5% tổng sản phẩm xã hội 
(GDP).Trong khu vực kinh tế Nhà nước có cuộc vận động “Ba xây, ba chống” nhằm 
cải tiến quản lý nâng cao hiệu quả sản xuất. 
Khi đánh giá thời kỳ này còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng về cơ bản đã thừa 
nhận những thành công đáng kể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Bởi vì cuối kế hoạch 
 103
này đời sống kinh tế văn hoá của nhân dân tăng lên rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào 
đường lối của Đảng và Bác Hồ. 
- Miền Bắc xây dựng CNXH trong điều kiện có chiến tranh phá hoại của Đế quốc 
Mỹ. 
Tháng 2- 1965 đế quốc Mỹ leo thang phá hoại miền Bắc, cuộc chiến tranh lan 
rộng cả nước. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968) là một thử thách 
hết sức nghiêm trọng, hết sức gay gắt. Đảng ta lúc này chủ trương phát triển kinh tế 
địa phương bao gồm cả công nghiệp và nông nghiệp. Nhằm phân tán tiềm lực kinh tế 
và khai thác nguồn lực tại chỗ, nhân dân vừa sản xuất vừa chiến đấu, sản xuất để chi 
viện cho Miền Nam và khẩu hiệu “Tất cả đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Tranh thủ 
sự chi viện của bè bạn, chủ yếu là của Liên Xô, Trung Quốc. 
Mặc dầu nhịp độ tăng trưởng không bằng trước chiến tranh song các ngành, các 
địa phương vẫn duy trì có hiệu quả việc sản xuất của mình, đảm bảo được đời sống 
cho nhân dân, chi viện tốt cho chiến trường. Nhiều địa phương thuộc vùng tuyến lửa 
đã không quản ngại gian khổ hi sinh để đảm bảo huyết mạch giao thông cho cả nước. 
Hinh thức sản xuất tập thể và chế độ phân phối bình quân tỏ ra thích hợp trong 
hoàn cảnh chiến tranh. Nhờ đó động viên được mọi người tham gia vừa sản xuất vừa 
chiến đấu. 
Ngày l tháng 11 năm 1968 đế quốc Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc Mỹ 
ném bom bắn phá miền Bắc. Nhân dân miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục và hàn 
gắn vết thương chiến tranh (1969- 1971). Miền Bắc tạm thời có hoà bình để khôi phục 
và phát triển kinh tế. Cuối năm 1971 chúng ta đạt được một số thành tựu trên lĩnh vực 
nông nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải. 
Đầu năm 1972 đế quốc Mỹ lại tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai vào 
miền Bắc với cường độ và quy mô ác liệt hơn nhiều so với lần trước. Miền Bắc lại 
chuyển hướng kinh tế sang thời chiến. Cuộc chiến tranh phá hoại 1972 tuy ngắn nhưng 
vô cùng ác liệt. Hầu hết các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội của miền Bắc đều bị phá 
hoại. Ngày 27-l- 1973 Mỹ ký kết hiệp định hòa bình với Việt Nam. Cuộc chiến kết 
thúc trên bàn hội nghị. Miền Bắc lại bắt tay ngay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, 
khôi phục kinh tế. 
Đảng ta chủ trương chuyển hướng lãnh đạo kinh tế từ thời chiến sang thời bình, 
nhưng mục tiêu lớn là để chi viện cho miền Nam. Miền Bắc vẫn chưa yên ổn để phát 
triển. Chiến tranh chưa thật sự kết thúc. 
Đến năm 1875 miền Bắc đã hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế sau chiến 
tranh, nhiều chỉ tiêu đạt được bằng và vượt so với trước. 
Đáng chú ý quan hệ sản xuất trong nông nghiệp được củng cố và phát triển. Từ 
chỗ 90,l% (1965) số hộ vào HTX đến 95,2% (năm 1975), quy mô HTX tăng gấp 4 lần 
so với 1965, đó là 199 hộ và 115 ha (1975). 
Từ năm 1955 - 1975 miền Bắc Việt Nam vừa xây dựng CNXH vừa chi viện cho 
Miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ. Trong hoàn cảnh đó nền kinh tế nước ta vừa 
có thuận lợi vừa có khó khăn. 
Thuận lợi cơ bản là có đường lối của Đảng ta được Bác Hồ đề xuất đúng đắn và 
phù hợp. Sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và bè bạn quốc tế trong cuộc kháng 
chiến chống Mỹ hết sức hào hiệp, vô tư. 
 104
Khó khăn lớn lớn nhất là nước ta còn nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Mâu 
thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô trong suốt 10 năm làm giảm sức mạnh của cả hệ 
thống XHCN. 
Tuy gặp không ít khó khăn nhưng 20 năm xây dựng CNXH nền kinh tế miền Bắc 
có biến đổi cơ bản. Quan hệ sản xuất XHCN không ngừng được củng cố và hoàn thiện 
làm chỗ dựa cho chế độ xã hội mới và tác động kích thích lực lượng sản xuất phát 
triển. 
Đời sống nhân dân miền Bắc đã được cải thiện một bước so với trước. Cơ sở vật 
chất kỹ thuật của CNXH đã được tăng cường .Lực lượng lao động xã hội được phân 
bổ hợp lý hơn trước. Khi tổng kết thành tích của miền Bắc, Bác Hồ nói: “Miền Bắc 
nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc, đất nước xã hội 
con người đều đổi mới”. 
2. Kinh tế miền Nam ( 1955 - 1975) 
Từ 1954 miền Nam đã thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Nền kinh tế dân 
tộc, độc lập giành lại trong kháng chiến đã bị xoá bỏ. Kinh tế miền Nam được xây 
dựng trên cơ sở kinh tế thị trường, mở cửa, nằm trong sự thống trị của đế quốc Mỹ. 
Thực chất kinh tế miền Nam từ 1955-1975 là nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào viện 
trợ của Mỹ. 
- Giai đoạn 1955-1965 
Về ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Chính quyền Ngô Đình Diệm chủ trương 
tước đoạt ruộng đất của nông dân chia lại cho địa chủ, khôi phục QHSX phong kiến. 
Chính sách này không được Mỹ đồng ý. Mỹ muốn đưa nông nghiệp nước ta phát triển 
theo con đường tư bản. 
Nông nghiệp vẫn giữ nguyên tình trạng độc canh, lạc hậu, phát triển chậm chạp, 
bấp bênh. Lúa là cây chủ yếu nhưng năng suất cây trồng thấp, cao su là cây trồng thứ 
hai (sau lúa) từ năm 1962 đã dần dần bị giảm sút. 
Công nghiệp của miền Nam ngày càng bị phụ thuộc vào tư bản nước ngoài, chính 
sách đầu tư do Diệm công bố ngày 5/3/1957. Do đó vốn đầu tư của tư bản nước ngoài 
đã chiếm tới 40-50% số vốn đầu tư vào công nghiệp. Những ngành công nghiệp quan 
trọng đều do tư bản nước ngoài thống trị (điện, cơ khí, hoá chất, thực phẩm, dệt, cao 
su...) 
Xu hướng chung của công nghiệp miền Nam là ngày càng bị giảm sút, nhất là 
trong các ngành vải, đường. Chỉ riêng các ngành thực phẩm, nhu yếu phẩm phục vụ 
chiến tranh tương đối phát triển. 
Hệ thống giao thông vận tải phục vụ chiến tranh được Mỹ - Ngụy chú ý đầu tư, 
xây dựng, ví dụ: Sa lộ Sài Gòn- Biên Hoà 32km, rộng 16-19m khá hiện đại. Khai 
thông các đường lên cao nguyên Trung Bộ như quốc lộ 19 từ Quy Nhơn đi Plâycu và 
quốc lộ số 24 từ Ninh Hoà đi Buôn Ma Thuật. Xây dựng các sân bay từ 20 cái (1954) 
lên hơn 40 cái năm 1961, các sân bay được trang bị hiện đại. .. 
Thương nghiệp miền Nam là bộ phận lưu thông, phân phối tiêu thụ hàng viện trợ 
của Mỹ, xuất khẩu chủ yếu là gạo và cao su (dưới dạng nguyên liệu). Mặc dầu ngụy 
quyền khuyến khích xuất nhưng tỷ lệ xuất bù nhập vào khoảng 25 đến 34% thị trường 
miền Nam là “chợ trời” của tư bản nước ngoài, nhưng mang tính chất phồn vinh giả 
tạo. Nạn đầu cơ lích trữ phát triển, hàng hoá phải qua nhiều khâu trung gian, lại bị tăng 
thuế và lạm phát nên giá cả hàng hoá tăng lên khủng khiếp. 
 105
Tài chính tiền tệ. Ngày 31/12/1954, Diệm tuyên bố thành lập ngân hàng quốc gia 
miền Nam, độc quyền phát hành giấy bạc. Nhưng vẫn phải để đồng tiền miền Nam 
trong khu vực đồng Fran. Tháng 6/1955 Ngụy quyền thủ tiêu quyền phát hành của 
ngân hàng Đông Dương và thu hồi các loại tiền khác, nguồn thu của Ngụy quyền dựa 
vào viện trợ và thuế, xin viện trợ của nhiều nước nhưng chủ yếu là Mỹ. Từ 1955-1960 
Mỹ viện trợ là l.574.18 triệu đô la, đó chính là công cụ của chủ nghĩa thực dân mới, 
qua đó Mỹ khống chế nền kinh tế miền Nam. 
- Giai đoạn từ 1965-1975 
* Nông nghiệp: Mỹ cố gắng thúc đẩy nông nghiệp, lôi cuốn nông dân, đưa nền 
kinh tế tiểu nông phát triển theo con đường TBCN. 
Mặc dầu có chiến tranh, ngụy quyền miền Nam vẫn ban hành những chính sách 
phát triển nông nghiệp hàng hoá. Nhiều đội công tác đã về tận nông thôn để chỉ đạo 
phát triển nông nghiệp. Đội “Cải thiện đời sống gia đình nông thôn”, cung cấp cho 
nông dân những giống mới thuốc trừ sâu, máy nông nghiệp. Mặc dầu vậy nông nghiệp 
miền Nam thời kỳ này bị suy sụp nghiêm trọng. Từ năm 1964 đến 1967 ở miền Nam 
có l triệu ha đất bị bỏ hoang, do chính sách dồn dân lập ấp. Kết quả miền Nam từ chỗ 
xuất khẩu mỗi năm l triệu tấn lương thực đến chỗ năm 1965 trở đi đã phải nhập gạo (từ 
1965-1970 Ngụy đã phải nhập 2,5 triệu tấn gạo. Năm 1965 phải nhập cả lợn, gà, đồ 
hộp, đồ ướp lạnh để cung cấp cho quân đội Mỹ. 
Công nghiệp giai đoạn này nhỏ bé chỉ chiếm 7,2%; nông nghiệp 39%; dịch vụ 
50%, trong công nghiệp tỷ trọng công nghiệp nhẹ rất lớn 80%. Công nghiệp miền Nam 
lệ thuộc sự viện trừ của Mỹ, chỉ phát triển ở những ngành lắp ráp, gia công chưa có xí 
nghiệp, nhà máy chế tạo sản phẩm cơ khí đồng bộ.Mặc dầu vậy so với miền Bắc, miền 
Nam có bước phát triển cao hơn trên các lĩnh vực công nghiệp chế biến, công nghiệp 
nhẹ. Về mặt kỹ thuật hiện đại hơn, năng suất cao hơn. 
Giao thông vận tải: Từ 1965 quân đội viễn quân Mỹ ồ ạt kéo vào miền Nam. Mỹ 
Ngụy đã chi hơn 2 tỷ USD cho giao thông vận tải để mở rộng, tu sửa và đặt các tuyến 
đường mới, phục vụ quân sự. Đến cuối 1970 ở miền Nam có tới 1000 km đường chiến 
lược quan trọng; 400km đường sắt; 52 máy bay dùng cho không quân dân dụng. 
Thương nghiệp là một lĩnh vực khá phát triển, tư bản thương nghiệp hình thành 
sớm, có khả năng vốn liếng để kinh doanh thương nghiệp. Mặc dầu vậy thương nghiệp 
miền Nam chỉ phục vụ nhu cầu chiến tranh, buôn bán hàng viện trợ. 
Trong 20 năm nền kinh tế miền Nam đang quá độ từng bước lên CNTB. Tuy đã 
có một số cơ sở sản xuất hiện đại của CNTB song sản xuất nhỏ vẫn là phổ biến. Nền 
kinh tế phát triển thấp kém, sa sút và mất cân đối, phụ thuộc. Nhiều di sản nặng nề của 
chủ nghĩa thực dân mới đã kìm hãm sự phát triển của xã hội. 
TÓM TẮT CHƯƠNG 
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời nền kinh tế Việt Nam thực sự 
biến đổi theo chiều hướng khác trước, đó là 30 năm tự lực tự cường, vừa có hoà bình 
vừa có chiến tranh. Kinh tế Việt Nam trong 30 năm đó đã đạt được những thành tựu 
đáng kể song cũng còn gặp phải những khó khăn thử thách, có cả yếu kém sai lầm, 
khuyết điểm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, cuộc kháng chiến trường kỳ 
đã kết thúc thắng lợi. Từ một nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến, nước ta đã xây 
dựng được nền kinh tế dân tộc dân chủ, phát triển lực lượng sản xuất, ổn định đời sống 
nhân dân, tiến tới xây dựng đất nước thống nhất theo con đường xã hội chủ nghĩa. 
 106
HỆ THỐNG CÂU HỎI ÔN TẬP 
Câu 1: Trình bày quá trình cải tạo XHCN ở Miền Bắc từ năm 1955 đến 1960.. 
Câu 2: Phân tích tình hình kinh tế vùng Chính phủ cách mạng kiểm soát (1947-1954). 
Câu 3: Đánh giá việc thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). 
Câu 4: Phân tích tình hình kinh tế Miền Nam giai đoạn 1955-1975. 
 107
CHƯƠNG XII. KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ CẢ NƯỚC THỐNG 
NHẤT, QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 
I. KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985 
1. Giai đoạn 1976 - 1980 
Trên cơ sở xây dựng đường lối chung, đường lối kinh tế, Đại hội Đảng toàn quốc 
lần thứ IV xác định phương hướng nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 với 
mục tiêu là: 
Xây dựng một bước cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH. Bước đầu hình thành cơ 
cấu kinh tế chung trong cả nước và cải thiện một bước đời sống của nhân dân lao 
động. 
 Về cải tạo QHSX 
Kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) Việt Nam tiến hành củng cố quan hệ sản xuất 
XHCN ở miền Bắc, cải tạo XHCN ở miền Nam, thống nhất nền kinh tế theo mô hình 
chung trên phạm vi cả nước. 
Miền Bắc tiếp tục phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Mô hình HTX 
nông nghiệp được đẩy lên mức cao nhất. Công nghiệp quốc doanh phát triển tràn lan. 
Miền Nam thực hiện công cuộc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể. 
Trong công nghiệp nhà nước đã quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư bản, thành lập 
các xí nghiệp quốc doanh, các xí nghiệp vừa và nhỏ đưa vào các xí nghiệp công tư hợp 
doanh. Tiểu chủ được đưa vào hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Đối với thương nghiệp 
xoá bỏ ngay tư bản thương nghiệp; tiểu thương chuyển sang sản xuất đồng thời thành 
lập hệ thống mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán nhỏ. 
Trong nông nghiệp từ 1978 đến cuối 1980 phong trào hợp tác hoá nông nghiệp 
được đẩy mạnh ở các tỉnh phía Nam. Tính đến tháng 7 năm 1980 toàn miền Nam đã 
xây dựng được 1.518 hợp tác xã; 9.350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6% tổng số hộ 
nông dân vào con đường làm ăn tập thể. 
Trong công nghiệp nhà nước quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản tư nhân trong 
nước và tư bản nước ngoài, chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. Đối với tư bản vừa và 
nhỏ tiến hành cải tạo hòa bình theo con đường công tư hợp doanh. Tiểu thương, tiểu 
chủ vận động vào các HTX thủ công nghiệp và HTX mua bán. 
Xóa bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư nhân, chuyển sang sản xuất. Nếu chống đối 
thì cải tạo lao động. Đầu năm 1978 một chiến dịch tấn công vào tư bản thương nghiệp 
được triển khai. Hàng nghìn tư sản thương nghiệp bị cưỡng chế cải tạo. Xí nghiệp 
được chuyển sang thương nghiệp quốc doanh quản lý và sử dụng. 
Sau cải tạo, kinh tế miền Nam hình thành hai thành phần kinh tế chủ yếu, đó là 
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Kinh tế miền Nam phát triển dần theo mô hình 
kinh tế miền Bắc. 
 Về phát triển LLSX 
Trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 Nhà nước đã sử dụng 1/3 tổng chi ngân sách 
để đầu xây dựng cơ bản. Riêng công nghiệp đã thành lập thêm 714 xí nghiệp quốc 
doanh, trong đó có 415 xí nghiệp công nghiệp nặng. 
Nông nghiệp, đã phục hóa được 50 vạn ha ruộng đất, khai hoang 70 vạn ha , diện 
tích tưới tiêu 86 vạn ha, diện tích cây trồng hàng năm tăng 2 triệu ha. Ngoài ra nông 
 108
nghiệp còn được trang bị thêm 18 nghìn máy kéo, đưa diện tích làm bằng máy lên 
25%. 
Ngành giao thông vận tải đã khôi phục xong tuyến đường sắt bắc nam dài 1700 
km, làm thêm 38000 km đường ô tô, khôi phục lại và làm mới trên 30000 m cầu. 
Kết thúc kế hoạch 5 năm (1976-1980) đã đạt được một số thành tựu như ổn định 
sản xuất, cải thiện đời sống, khôi phục và phát triển một số ngành và vùng kinh tế. Hàn 
gắn được một phần vết thương chiến tranh. Tuy nhiều thành tựu nhưng về kinh tế còn 
thấp so với yêu cầu đề ra, thậm chí có điểm không phù hợp, cản trở phát triển lực 
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tuy mới được cải tạo nhưng chưa phát huy được hiệu 
quả. Kinh tế quốc doanh và tập thể chưa phát huy vai trò của mình. Cuối năm 1980 
hàng loạt hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tan rã chỉ còn lại 3.732 tập đoàn sản xuất và 
173 hợp tác xã quy mô vừa. Cơ sở vật chất kỹ thuật có được tăng cường nhưng tốc độ 
tăng trưởng không cân xứng với mức đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả kinh tế thấp. 
Tính chung kế hoạch 1976-1980 bình quân tổng sản phẩm xã hội tăng l,4%; thu 
nhập quốc dân tăng 0,4% năm ( kế hoạch là 13 - 14%); trong khi đó dân số tăng bình 
quân 2,3%; tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập khẩu 
1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thâm hụt, giá tăng 20%, nhập khẩu gấp 4 - lần 
xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư, nhiều công trình bỏ dở, hàng tiêu dùng khan 
hiếm. 
Đại hội IV đã đề ra mục tiêu cải tạo XHCN trong cả nước, xây dựng chế độ làm 
chủ tập thể và sản xuất lớn. Nhưng do mục tiêu đề ra vượt quá khả năng nên tất cả 15 
chỉ tiêu kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) đều không thực hiện được, lạm phát diễn ra 
nghiêm trọng, tiền tệ rối ren, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. 
Đời sống nhân dân thuộc mọi tầng lớp đều khó khăn. Cứ 10 người dân có tới 7 người 
trong tình trạng thiếu đói. Đây là thời kỳ làn sóng “di tản” “thuyền nhân” diễn ra mạnh 
nhất. Đăc biệt “điều đặc biệt nghiêm trọng là người lao động nông nghiệp cũng như 
công nghiệp, trong quốc doanh cũng như HTX giảm hăng hái sản xuất ” 
* Nguyên nhân. 
 Khách quan: Do chiến tranh tàn phá nặng nề, thiên tai liên tiếp, nền sản xuất 
nhỏ lạc hậu. Do khủng hoảng của hệ thống XHCN nên sự giúp đỡ từ các nước 
XHCN giảm sút. 
 Chủ quan: Do nóng vội muốn có CNXH càng nhanh càng tốt nên đã đề ra 
nhiều mục tiêu quá cao, không sát thực tế, trong khi đó chỉ đạo thực hiện còn yếu 
kém, làm cho trì trệ trong sản xuất kinh doanh. 
2. Giai đoạn 1981-1985 . 
Kế hoạch 5 năm thực hiện không mấy thành công đã đặt ra cho Đảng và Nhà 
nước hàng loạt vấn đề cần phải giải quyết. Đây được coi là thời kỳ thai nghén cho 
công cuộc đổi mới. Trước khi bước vào thời kỳ đổi mới Đảng ta cho thí điểm thực 
hiện chế độ khoán một số lĩnh vực. Hội nghị TW6 (tháng 8/1979) là sự khởi đầu của 
quá trình đổi mới. Nội dung Nghị quyết 6 là đổi mới công tác kế hoạch hoá và cải tiến 
một số chính sách làm cho sản xuất “bung ra” theo hướng kế hoạch của nhà nước. 
Trước diễn biến của tình hình phức tạp ngày 13/11/1981 ban bí thư đã ban hành 
chỉ thi 100 về công tác khoán và mở rộng khoán đến nhóm và người lao động. Đây 
thực sự là bước đột phá trong nông nghiệp. Khoán 100 đã tạo đà cho nông nghiệp phát 
triển. Sản lượng lương thực tăng từ 14,4 triệu tấn (1980) lên 16,8 triệu tấn năm 1982. 
 109
Đại hội V đã đề ra chặng đường đi của cách mạng Việt Nam, chặng trước mắt bao 
gồm những năm của thập kỷ 80, với mục tiêu ổn định và từng bước phát triển kinh tế 
xã hội. 
Trong công nghiệp: Ngày 21/1/1981 Chính phủ ban hành Quyết định 25/CP về 
một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất kinh 
doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. 
Về chính sách giá - lương - tiền: Lần đầu tiên Nhà nước điều chỉnh giá sát với giá 
thị trường. Tháng 10/1985 cải cách giá - lương - tiền, cuộc cải cách không thành công 
vì chưa xoá bỏ bao cấp. 
Kết quả đổi mới cục bộ: Nền kinh tế tăng trưởng khá hơn. Tổng sản phẩm xã hội 
bình quân tăng 7,3%/ năm, thu nhập quốc dân tăng 6,4%. Mặc dầu vậy nền kinh tế 
1981 - 1985 vẫn theo cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn nặng nề, cơ chế 
mới chưa thể vận hành được. Do đó động lực sản xuất kinh doanh vẫn chưa được kích 
thích. Kết thúc kế hoạch nhiều chỉ tiêu chưa đạt được mức đề ra ban đầu. Sau 2 kế 
hoạch 5 năm xây dựng và phát triển theo mô hình cũ, nền kinh tế Việt Nam rơi vào 
tình trạng khủng hoảng: 
 QHSX không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. 
 Kinh tế tăng trưởng thấp. Nếu tính chung 1976 - 1985 tổng sản phẩm xã hội 
tăng 50,5%, bình quân mỗi năm tăng 4,6%, thu nhập quốc dân tăng 3,7%/ năm. 
 Sản xuất không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. 
 Lạm phát diễn ra nghiêm trọng, năm 1986 tốc độ tăng giá 774,7%. 
Nhìn chung, kế hoạch năm 1981-1985 chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình 
hình kinh tế- xã hội, đời sống nhân dân chưa được cải thiện, tiêu cực trong xã hội ngày 
càng nhiều, pháp luật kỷ cương không nghiêm. Quần chúng giảm lòng tin đối với sự 
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. 
Nguyên nhân, do chưa kiên quyết khắc phục sai lầm trong 5 năm trước, như bệnh 
chủ quan, nóng vội, duy ý chí, bảo thủ, trì trệ trong cải tạo XHCN, bố trí cơ cấu kinh 
tế, quản lý kinh tế. 
Tóm lại, qua thực tiễn 10 năm xây dựng CNXH trên cả nước càng khẳng định mô 
hình kinh tế cũ có nhiều hạn chế. Công hữu hoá TLSX với hai thành phần kinh tế chủ 
yếu là quốc doanh và tập thể không tạo được động lực cho kinh tế phát triển. Quản lý 
kinh tế lập trung quan liêu bao cấp đã trở thành lực cản lớn đối với sản xuất. 
II. THỜI KỲ ĐỔI MỚI KINH TẾ TỪ 1986 ĐẾN NAY. 
l. Giai đoạn đầu đổi mới kinh tế (1986 - 1990) 
Trước đại hội VI, tư duy kinh tế trong giới lãnh đạo của chúng ta chia làm hai 
hướng. Một là, đổi mới xé rào để khắc phục khủng hoảng. Hai là, kiên định lập trường 
kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp. Những quan điểm trái ngược nhau đã giúp cho Trung 
ương thẳng thắn “nhìn thẳng vào sự thật và đánh giá đúng sự thật”. Đại hội VI tháng 
12/1986 là đại hội mở đầu cho thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Đại hội chỉ ra nguyên 
nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng kinh tế- xã hội. Trên cơ sở đó đề ra đường lối xây 
dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 
Đường lối đổi mới của Đảng ta là đổi mới toàn diện nhưng trước hết là đổi mới 
kinh tế. Trong đó quan trọng nhất là đổi mới tư duy kinh tế. 
* Nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế: 
 110
- Điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào 3 chương trình mục tiêu
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 gtkt0030_p2_5292.pdf gtkt0030_p2_5292.pdf