Biến Phụ Thuộc Định Tính Và Giới Hạn
Trong tất cả các chủ đề đã thảo luận trước đây, chúng ta đều xem xét các giá trị của một biến
phụ thuộc như thể chúng thay đổi liên tục. Tuy nhiên, nhiều tình huống xuất hiện không phải là
trường hợp như vậy. Ví dụ, giả sử chúng ta mong muốn lập mô hình ra quyết định mua của một
hộ gia đình, cụ thể hơn, quyết định có nên mua một chiếc xe hơi hay không. Tại thời điểm khảo
sát, một gia đình nào đó hoặc sẽ mua hoặc không mua một chiếc xe. Trong tình huống này,
chúng ta có một biến phụ thuộc định tính – tức là, ta sẽ cho ra giá trị 1 nếu hộ gia đình này
mua xe và giá trị 0 nếu không mua. Những quyết định của các hộ gia đình khác ví dụ như có
mua một ngôi nhà, đồ trang trí nội thất, dụng cụ điện, hoặc những hàng hóa lâu bền khác hay
không là những ví dụ mà biến phụ thuộc có thể là một biến giả. Trong thị trường lao động,
quyết định có gia nhập lực lượng lao động, sa thải một nhân viên, hoặc tham gia vào công đoàn
hay không là những ví dụ của các loại biến phụ thuộc nhị nguyên. Trong những trường hợp này,
diễn giải của biến phụ thuộc này đó là một phương pháp xác suất mà nó nhận giá trị 0 hoặc 1,
mặc dù giá trị lý thuyết có thể là bất kỳ giá trị trung gian nào.
Trong Chương 7, chúng ta đã giới thiệu các biến giả (hoặc là biến nhị nguyên) và mô tả sự
hữu dụng của chúng trong việc có được những tác động của các biến độc lập định lượng lên
biến phụ thuộc. Các vấn đề đặc biệt nảy sinh khi biến phụ thuộc là biến nhị nguyên. Những mô
hình có các biến phụ thuộc loại này được xem như những mô hình lựa chọn rời rạc hay những
mô hình phản ứng định tính.
 
              
                                            
                                
            
 
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: hongha80 | Lượt xem: 718 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Kinh tế lượng với các ứng dụng - Chương 12: Biến phụ thuộc định tính và giới hạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểm duyệt. 
Mô Hình Tobit (hay Hồi Qui Kiểm Duyệt) 
Trong mô hình Tobit, có một sự không đối xứng giữa các quan sát với giá trị dương của Y và 
giữa các quan sát với giá trị âm. Trong trường hợp này, mô hình trở thành 
−−≤≤
−−>>++=
ttt
ttttt
t XuY
XuYuX
Y βα
βαβα
hoặc0 nếu0
hoặc0 nếu
Giả thiết cơ bản đằng sau mô hình này là có tồn tại một hàm số chỉ số It = α + βXt + ut đối với 
mỗi nhà kinh tế đang tiến hành nghiên cứu. Nếu It ≤ 0, thì giá trị của biến phụ thuộc được đặt 
bằng 0. Nếu It > 0, giá trị của biến phụ thuộc được đặt bằng It. Giả sử u có phân phối chuẩn với 
trị trung bình bằng không và phương sai σ2. Chúng ta lưu ý Z = u/σ là một biến ngẫu nhiên 
chuẩn chuẩn hóa. Ký hiệu f(z) là mật độ xác suất của biến Z chuẩn chuẩn hóa, và F(z) là xác 
suất tích lũy – tức là, P[Z ≤ z]. Mật độ xác suất kết hợp của những quan sát đó với Yt dương 
được cho bởi biểu thức sau: (xem Phần 3.A.5) 
P1 = ∏=
= 
 −−mi
i
ii XYf
1
1
σ
βα
σ 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khóa 2003-2004 
Phương pháp phân tích 
Bài đọc 
Nhập môn kinh tế lượng với các ứng dụng 
Chương 12: Biến phụ thuộc định tính 
và giới hạn 
Ramu Ramanathan 10 Thuc Doan/Hao Thi 
với ∏ là ký hiệu tích số và m là số quan sát trong từng mẫu con mà Y có giá trị dương. Đối với 
mẫu con thứ hai (cỡ mẫu là n) trong đó giá trị Y quan sát là bằng không, biến ngẫu nhiên u ≤ - 
α – βX. Xác suất của dữ kiện này là 
P2 [ ]∏=
=
−−≤=
nj
j
jj XuP
1
βα 
 = ∏=
=
 −−nj
j
jXF
1 σ
βα
Do đó xác suất kết hợp của tổng thể mẫu là L = P1P2. Bởi vì các hệ số α và β là phi 
tuyến, thủ tục OLS không thích hợp ở đây. Thủ tục để có được những giá trị ước lượng của 
α và β là làm cực đại L theo các thông số. Đó là thủ tục thích hợp cực đại được mô tả trong 
Phần 3.A.5. 
Trong các chương trình máy tính, những chương trình như Eviews, LIMDEP, SAS, 
SHAZAM, và TSP có các thủ tục để ước lượng mô hình Tobit. 
Ví Dụ Thực Nghiệm: Mô Hình Tobit Của Việc Đóng Góp Từ Thiện 
Reece (1979), sử dụng một mô hình Tobit, đã thực hiện một nghiên cứu về những đóng góp từ 
thiện. Mặc dù ông ta xác định được một số thành phần của đóng góp từ thiện, nhưng ở đây 
chúng ta chỉ quan tâm đến ba thành phần: tổng của tất cả đóng góp, đóng góp từ thiện, và một 
nhóm được gọi là “CONTRIB”, mà nó loại tất cả những đóng góp quà tặng đến những thành 
viên không gia đình và một vài đóng góp khác. Phần lớn những dữ liệu thu thập được (cho 
những số lượng lớn hộ gia đình) từ Khảo Sát Chi Tiêu Tiêu Dùng của Cục Thống Kê Lao 
Động năm 1972 và 1973. Những hộ gia đình từ một số Khu Vực Thống Kê Đô Thị Tiêu Chuẩn 
(SMSA). Các nguồn dữ liệu khác từ cục Thống Kê về Điều Tra Dân Số và Bộ Sức Khỏe, Giáo 
Dục, và Phúc Lợi của Mỹ. Bảng 12.3 trình bày những độ co dãn ước lượng thể hiện bằng các 
hệ số của hàm chỉ số, bản thân các hệ số, và những trị thống kê t tương ứng. Các biến độc lập 
như sau: 
 PRICE = Giá của những đóng góp 
 INCOME = thu nhập (trước thuế) trung bình của gia đình trong năm hiện hành và 
những năm trước đó cộng với thu nhập ròng do việc sở hữu nhà 
ASSISTANCE = Trợ giúp công cộng trung bình 
 RECIPIENT = Thu nhập gia đình bậc dưới năm đối với SMSA 
 COL = Một chỉ số của ngân sách gia đình đối với SMSA 
 AGE = Tuổi của chủ hộ 
 SECOND = 1 cho mẫu của năm 1973, 0 cho mẫu của năm 1972 
Reece định nghĩa giá của một đôla đóng góp là lượng tiêu dùng mất đi của hộ gia đình 
do việc họ làm từ thiện. Bởi vì thuế có thể được khấu trừ do việc đóng góp, nên giá nói chung 
sẽ nhỏ hơn 1. Để biết thêm chi tiết và đại lượng chính xác được sử dụng, những người quan 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khóa 2003-2004 
Phương pháp phân tích 
Bài đọc 
Nhập môn kinh tế lượng với các ứng dụng 
Chương 12: Biến phụ thuộc định tính 
và giới hạn 
Ramu Ramanathan 11 Thuc Doan/Hao Thi 
tâm nên tham khảo bài báo gốc. Để xem xét những khác biệt về giá của hàng hóa tiêu dùng 
giữa những hộ gia đình, sử dụng biến chỉ số mức sống (COL). Biến RECIPIENT được sử dụng 
để ước lượng gần đúng tác động của mô trường xã hội. Giả thuyết là, ngoại trừ họ ra, những hộ 
gia đình quan tâm chủ yếu đến những hộ gia đình khác cùng sống trong một khu vực địa lý (đó 
là giả thuyết “sự phụ thuộc lẫn nhau về lợi ích”). Nếu thu nhập của những hộ gia đình khác là 
thấp, hộ gia đình có thể rộng rãi hơn cho những khoản đóng góp của họ. Thu nhập dưới 20 
phần trăm của những gia đình sinh sống trong khu vực (thấp hơn bậc năm) được sử dụng như 
biến RECIPIENT. 
} Bảng 12.3 Những Mô Hình Tobit Ước Lượng 
 Các Phương trình 
 (1) (2) (3) 
 Charity + Deducted All Contrib. 
PRICE -0,976 -1,401 -1,192 
 -114,60 -787,88 -396,71 
 (-2,67) (-4,63) (-4,15) 
INCOME 1,423 0,550 0,877 
 0,0095 0,0176 0,0166 
 (9,99) (4,87) (8,01) 
AGE 0,309 0,484 0,380 
 0,8808 6,60 3,06 
 (1,44) (2,79) (2,30) 
ASSISTANCE -0,097 -0,186 0,102 
 -0,0108 -0,0996 0,0322 
 (-0,29) (-0,67) (0,39) 
RECIPIENT -0,138 0,327 0,351 
 -0,0017 0,0190 0,0121 
 (-0,37) (1,06) (1,20) 
COL -1,511 0,518 -0,542 
 -0,1420 0,2329 -0,1443 
 (-1,21) (0,51) (-0,57) 
SECOND -0,016 0,005 -0,012 
 -3,42 5,32 -7,30 
 (-0,27) (0,11) (-0,26) 
CONSTANT 124,70 113,33 183,61 
 (0,95) (0,22) (0,64) 
1-e’e/s2 0,342 0,175 0,282 
1-e’e/y’y 0,466 0,405 0,529 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khóa 2003-2004 
Phương pháp phân tích 
Bài đọc 
Nhập môn kinh tế lượng với các ứng dụng 
Chương 12: Biến phụ thuộc định tính 
và giới hạn 
Ramu Ramanathan 12 Thuc Doan/Hao Thi 
Lưu ý: Độ co dãn, hệ số, và trị thống kê t (trong ngoặc đơn) được cung cấp cho từng biến 
Nguồn: Trích dẫn từ Reece, 1979, Bảng 1, t.147. Được in lại dưới sự chấp thuận của Hiệp Hội Kinh Tế Hoa Kỳ 
Hai hàng cuối cùng trong Bảng 12.3 cho thấy hai đại lượng đo mức độ thích hợp. Mặc dù 
chúng không quá cao, nhưng chúng hợp lý, xét đến trường hợp để có được những đo lường mức 
độ thích hợp cao đối với những dữ liệu chéo là rất khó khăn (đặc biệt là một đối với số lượng 
lớn hộ gia đình). Biến phụ thuộc CHARITY + DEDUCTED bao gồm tất cả các khoản đóng 
góp từ thiện, không cần biết đến chúng có được khấu trừ từ khoản chi trả hay không. Các biến 
PRICE và INCOME có ý nghĩa thống kê và đều mang dấu như kỳ vọng. Các biến về môi 
trường xã hội ASSISTANCE và RECIPIENT mang những hệ số âm không có ý nghĩa. Điều 
này gợi ý rằng thiếu sự hỗ trợ đối với giả thuyết “sự phụ thuộc lẫn nhau về lợi ích”. Hệ số của 
SECOND là âm và không ý nghĩa. Điều này cho thấy những đóng góp trung bình của năm 
1973 đã giảm so với năm 1972. Kết quả này cũng được mong đợi bởi vì năm 1972 là năm bầu 
cử. Các kết quả cũng cho biết (1) khả năng khấu trừ thuế của việc đóng góp từ thiện là yếu tố 
quan trọng trong việc xác định số lượng đóng góp và (2) những tổ chức tôn giáo thu được lợi 
nhiều hơn khi những đóng góp được khấu trừ thuế. 
Tóm Tắt 
Chương này tập trung vào những nghiên cứu đặc biệt cần thiết khi biến phụ thuộc (Y) hoặc có 
dạng nhị nguyên hoặc có một bước nhảy rời rạc tại giá trị 0. Khi quyết định một nhà kinh tế 
dưới dạng thực hiện hay không thực hiện một hành động nào đó (ví dụ, mua xe hay mua nhà, 
biểu tình chống lại người chủ, bầu cử cho một ứng cử viên, ), giá trị quan sát được của Y là 1 
hoặc 0. Những mô hình nhắm đến loại biến phụ thuộc này được biết đến như những mô hình 
lựa chọn rời rạc. Những mô hình xác suất tuyến tính, những mô hình đơn vị xác suất, và những 
mô hình logit là những ví dụ của loại mô hình lựa chọn rời rạc. Không áp dụng được thủ tục 
OLS vào một mô hình với biến phụ thuộc nhị nguyên bởi vì các số hạng sai số có phương sai 
của sai số thay đổi. Sư ûdụng một mô hình nhị nguyên, ta có thể ước lượng phương sai của sai 
số thay đổi và áp dụng bình phương tối thiểu trọng số. Tuy nhiên, không có sự bảo đảm là 
những giá trị ước đoán của biến phụ thuộc (được diễn dịch là một đại lượng xác suất) sẽ nằm 
giữa 0 và 1. Để tránh sự khó khăn này, những mô hình logit thường được sử dụng. Bây giờ 
biến phụ thuộc sẽ có dạng ln[P/(1 - P)], với P là phân đoạn thời gian quan sát được của một 
quyết định nào đó được ưa thích và ln là lôgarít tự nhiên. Mô hình logit có tính chất mà giá trị 
ước đoán của P luôn nằm giữa 0 và 1. Nếu Y không phải là phần được quan sát nhưng là nhị 
nguyên (chỉ có giá trị 0 hoặc 1), thì sử dụng mô hình đơn vị xác thích hợp hơn. 
Trong rất nhiều tình huống, Y có thể được giới hạn bởi giá trị 0 (hoặc một vài giá trị 
ngưỡng nào đó). Do vậy, giá trị quan sát của Y có thể là dương hoặc bằng không, nhưng không 
bao giờ âm. Những biến nội sinh của loại này được biết đến như những biến phụ thuộc giới 
hạn. Mô hình Tobit thường được sử dụng để chỉ ra những biến phụ thuộc giới hạn. OLS cũng 
không thể áp dụng được ở đây bởi vì điều kiện E(u) = 0 (u là số hạng sai số) cần thiết cho 
những ước lượng không thiên lệch, không được thỏa mãn. Thủ tục thích hợp ở đây là phương 
pháp thích hợp cực đại. 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright 
Niên khóa 2003-2004 
Phương pháp phân tích 
Bài đọc 
Nhập môn kinh tế lượng với các ứng dụng 
Chương 12: Biến phụ thuộc định tính 
và giới hạn 
Ramu Ramanathan 13 Thuc Doan/Hao Thi 
Thuật Ngữ 
Binary choice models: Mô hình lựa chọn nhị nguyên 
Binominal logit model: Mô hình logit nhị thức 
Censored regressions: Hồi qui kiểm duyệt 
Discrete choice models: Mô hình lựa chọn rời rạc 
Limited dependent variable: Biến phụ thuộc giới hạn 
Linear probability models: Mô hình xác suất tuyến tính 
Logit model: Mô hình Logit 
Probit model: Mô hình đơn vị xác suất 
Qualitative dependent variable: Biến phụ thuộc định tính 
Qualitative response models: Mô hình phản ứng định tính 
Tobit models: Mô hình Tobit 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ramach12_3454.pdf ramach12_3454.pdf