Ngày nay, phối hợp thuốc sớm là một tiếp cận được chấp nhận rộng 
rãi trong điều trị tăng huyết áp. Khởi trị bằng phối hợp thuốc được chỉ định 
khi huyết áp ban đầu của bệnh nhân ³ 160/100 mm Hg (tăng huyết áp giai 
đoạn 2 theo JNC 7) và trong trường hợp bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao 
1,2. Một trong các phối hợp thuốc được ưa chuộng là phối hợp thuốc chẹn 
canxi với thuốc chẹn thụ thể angiotensin. Phối hợp này vừa hợp lý về mặt 
sinh lý bệnh vì tác động đồng thời lên 2 cơ chế bệnh sinh khác nhau, vừa có 
tác dụng thuận lợi về mặt chuyển hóa và được dung nạp tốt về dài hạn 2. 
Hiện đã có nhiều chứng cứ về hiệu quả kiểm soát huyết áp và một số chứng 
cứ ban đầu về hiệu quả ngăn ngừa các biến cố tim mạch của phối hợp thuốc 
chẹn canxi với thuốc chẹn thụ thể angiotensin
              
                                            
                                
            
 
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 1 
              
            Nội dung tài liệu Lợi ích của phối hợp thuốc chẹn Canxi với thuốc chẹn thụ thể Angiotensin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lợi ích của phối hợp thuốc chẹn 
Canxi với thuốc chẹn thụ thể 
Angiotensin 
MỞ ĐẦU 
Ngày nay, phối hợp thuốc sớm là một tiếp cận được chấp nhận rộng 
rãi trong điều trị tăng huyết áp. Khởi trị bằng phối hợp thuốc được chỉ định 
khi huyết áp ban đầu của bệnh nhân ³ 160/100 mm Hg (tăng huyết áp giai 
đoạn 2 theo JNC 7) và trong trường hợp bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao 
1,2. Một trong các phối hợp thuốc được ưa chuộng là phối hợp thuốc chẹn 
canxi với thuốc chẹn thụ thể angiotensin. Phối hợp này vừa hợp lý về mặt 
sinh lý bệnh vì tác động đồng thời lên 2 cơ chế bệnh sinh khác nhau, vừa có 
tác dụng thuận lợi về mặt chuyển hóa và được dung nạp tốt về dài hạn 2. 
Hiện đã có nhiều chứng cứ về hiệu quả kiểm soát huyết áp và một số chứng 
cứ ban đầu về hiệu quả ngăn ngừa các biến cố tim mạch của phối hợp thuốc 
chẹn canxi với thuốc chẹn thụ thể angiotensin. 
HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT HUYẾT ÁP CỦA PHỐI HỢP THUỐC 
CHẸN CANXI VỚI THUỐC CHẸN THỤ THỂ ANGIOTENSIN 
NICE-Combi (Nifedipine and Candesartan Combination) là một thử 
nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, mù đôi thực hiện tại Nhật trên 258 
bệnh nhân tăng huyết áp có huyết áp chưa được kiểm soát bởi đơn trị trong 8 
tuần bằng candesartan 8 mg/ngày 3. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào 
nhóm phối hợp candesartan 8 mg/ngày + nifedipine CR (controlled-release) 
20 mg/ngày hoặc nhóm candesartan 12 mg/ngày. Tiêu chí đánh giá chính là 
thay đổi huyết áp, áp lực mạch (là hiệu số huyết áp tâm thu - huyết áp tâm 
trương) và mức bài xuất albumin trong nước tiểu sau 8 tuần điều trị. Kết quả 
NICE-Combi cho thấy huyết áp của cả 2 nhóm đều giảm có ý nghĩa vào cuối 
nghiên cứu, tuy nhiên huyết áp của nhóm phối hợp candesartan + nifedipine 
giảm nhiều hơn so với huyết áp của nhóm candesartan đơn trị liều cao (12,1 
± 1,4/8,7 ± 0,9 mm Hg so với 4,1 ± 1,4/4,6 ± 0,9 mm Hg, p < 0,0001). Ở 
nhóm phối hợp candesartan + nifedipine áp lực mạch giảm 3,3 ± 1,2 mm 
Hg, trong khi ở nhóm candesartan đơn trị liều cao áp lực mạch chỉ giảm 0,7 
± 1,2 mm Hg (khác biệt có ý nghĩa với p = 0,003). Mức bài xuất albumin 
trong nước tiểu giảm rõ rệt ở nhóm phối hợp candesartan + nifedipine (từ 
61,9 xuống 40,5 mg/g creatinin, p < 0,01) nhưng không thay đổi ở nhóm 
candesartan đơn trị liều cao. 
EX-FAST (Exforge in Failure After Single Therapy) là một thử 
nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, mù đôi thực hiện trên 894 bệnh 
nhân tăng huyết áp có huyết áp chưa được kiểm soát bởi đơn trị bằng thuốc 
(39,4% dùng thuốc chẹn thụ thể angiotensin, 22,1% dùng ức chế men 
chuyển, 14,8% dùng chẹn bêta, 13,9% dùng chẹn canxi, 8,9% dùng lợi tiểu) 
4. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhóm phối hợp amlodipine 5 
mg/ngày + valsartan 160 mg/ngày (n = 443) hoặc nhóm phối hợp 
amlodipine 10 mg/ngày + valsartan 160 mg/ngày (n = 451). Tiêu chí đánh 
giá chính là tỉ lệ kiểm soát được huyết áp sau 16 tuần điều trị (huyết áp < 
140/90 mm Hg hoặc < 130/80 mm Hg đối với người bệnh đái tháo đường). 
Kết quả cho thấy tỉ lệ kiểm soát được huyết áp là 72,7% (khoảng tin cậy 
95%: 68,6-76,9%) ở nhóm phối hợp 5 mg/160 mg và 74,8% (khoảng tin cậy 
95%: 70,8-78,9%) ở nhóm phối hợp 10 mg/160 mg. Mức hạ huyết áp so với 
lúc mới vào nghiên cứu là 20,0 ± 0,7/11,6 ± 0,4 mm Hg ở nhóm phối hợp 5 
mg/160 mg và 17,5 ± 0,7/10,4 ± 0,4 mm Hg ở nhóm phối hợp 10 mg/160 
mg. Các mức hạ huyết áp này không phụ thuộc vào thuốc dùng trước đó, độ 
nặng của tăng huyết áp, tình trạng đái tháo đường, chỉ số khối cơ thể và tuổi 
của bệnh nhân. 
Nói chung, các nghiên cứu về phối hợp thuốc chẹn canxi với thuốc 
chẹn thụ thể angiotensin đều cho thấy phối hợp thuốc giúp kiểm soát huyết 
áp hữu hiệu và nhanh chóng hơn đơn trị bằng từng thành phần và có thể có 
hiệu quả bảo vệ thận cao hơn đơn trị bằng thuốc chẹn thụ thể angiotensin 
liều cao (NICE-Combi). 
NGĂN NGỪA CÁC BIẾN CỐ TIM MẠCH: PHÂN TÍCH SỐ 
LIỆU CỦA ACTION 
ACTION (A Coronary disease Trial Investigating Outcome with 
Nifedipine GITS) là một thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, mù 
đôi, có mục tiêu là đánh giá ảnh hưởng của nifedipine GITS đối với dự hậu 
dài hạn của bệnh nhân đau thắt ngực ổn định 5. Bệnh nhân được tuyển vào 
ACTION là những người tuổi ³ 35, có đau thắt ngực ổn định từ ít nhất 1 
tháng, đang phải dùng thuốc uống hoặc miếng dán ngoài da để điều trị hoặc 
ngừa cơn đau ngực, có phân suất tống máu thất trái ³ 40% và thuộc một 
trong 3 dạng sau: (1) có tiền sử nhồi máu cơ tim; (2) có bệnh mạch vành 
được xác định bằng chụp mạch vành cản quang nhưng không có tiền sử nhồi 
máu cơ tim; và (3) có nghiệm pháp gắng sức dương tính hoặc khiếm khuyết 
tưới máu dù chưa từng chụp mạch vành và không có tiền sử nhồi máu cơ 
tim. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên cho dùng nifedipine GITS (liều khởi 
đầu 30 mg/ngày, tăng lên 60 mg/ngày trong vòng 6 tuần nếu không có dấu 
hiệu không dung nạp) hoặc placebo. Tiêu chí đánh giá chính là phối hợp các 
biến cố chết do mọi nguyên nhân, nhồi máu cơ tim cấp, đau thắt ngực kháng 
trị, suy tim mới mắc, đột quị gây tàn phế và tái tưới máu ngoại vi. 
Tổng cộng có 3825 bệnh nhân được phân vào nhóm nifedipine GITS 
và 3840 bệnh nhân được phân vào nhóm placebo. Tuổi trung bình của bệnh 
nhân là 63,5. 79% bệnh nhân là nam giới, 51% có tiền sử nhồi máu cơ tim, 
15% đái tháo đường và 52% có huyết áp ³ 140/90 mm Hg. Thời gian theo 
dõi trung bình là 4,9 năm. 
Kết quả ACTION cho thấy tần suất các biến cố thuộc tiêu chí đánh giá 
chính của 2 nhóm không khác biệt, tuy nhiên tần suất chết và biến cố tim 
mạch hoặc thủ thuật tim mạch nói chung của nhóm nifedipine GITS thấp 
hơn có ý nghĩa so với nhóm placebo (9,32/100 bệnh nhân-năm so với 
10,50/100 bệnh nhân-năm, p = 0,0012). Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận 
điều trị bằng nifedipine GITS giảm có ý nghĩa nguy cơ suy tim mới mắc, 
nhu cầu phải chụp mạch vành và nhu cầu phải mổ bắc cầu mạch vành. 
Mới đây 2 tác giả Elliott và Meredith đã phân tích hồi cứu số liệu của 
ACTION để đánh giá hiệu quả của phối hợp nifedipine GITS với một thuốc 
ức chế hệ renin-angiotensin (thuốc chẹn thụ thể angiotensin hoặc thuốc ức 
chế men chuyển) 6. Từ dân số chung của ACTION, các tác giả lọc ra 1732 
người được điều trị bằng một thuốc ức chế hệ renin-angiotensin từ lúc mới 
vào nghiên cứu. 1732 người này có tuổi trung bình là 63,8, nam giới chiếm 
tỉ lệ 76%, có 57% đã từng bị nhồi máu cơ tim và 23% bị đái tháo đường. 857 
bệnh nhân được phân cho dùng nifedipine GITS và 875 được phân cho dùng 
placebo. Kết quả phân tích cho thấy nifedipine GITS hạ huyết áp không 
nhiều (bệnh nhân dùng nifedipine GITS có huyết áp thấp hơn 3,2/2,3 mm 
Hg so với bệnh nhân dùng placebo) nhưng lại giảm rất đáng kể các biến cố 
tim mạch. So với dân số chung của ACTION, những bệnh nhân được điều 
trị bằng một thuốc ức chế hệ renin-angiotensin từ lúc mới vào nghiên cứu 
hưởng lợi nhiều hơn từ điều trị bằng nifedipine GITS. Bảng 1 tóm tắt mức 
giảm nguy cơ bị các biến cố tim mạch ở phân nhóm điều trị bằng một thuốc 
ức chế hệ renin-angiotensin và trong dân số chung của ACTION. 
Bảng 1: Mức giảm nguy cơ bị các biến cố tim mạch trong nghiên 
cứu ACTION. 
 Phân nhóm 
điều trị bằng thuốc 
ức chế hệ renin-
angiotensin (n = 
1732) 
Dân số 
chung của 
ACTION (n = 
7655) 
Tiêu chí đánh giá chính * -14% -3% 
Tiêu chí đánh giá phụ 
Mọi biến cố tim mạch 
Tử vong, biến cố và thủ thuật 
tim mạch 
Biến cố và thủ thuật tim 
mạch 
-20% (P < 
0,05) 
-16% (P < 
0,05) 
-12% 
-6% 
-11% (P < 
0,02) 
-9% (P < 
0,03) 
Từng tiêu chí đánh giá riêng 
rẽ 
3,3/2,3 
4,6/2,7 
Mức hạ huyết áp (mm Hg) 
Suy tim mới mắc 
Đột quị gây tàn phế 
Chụp mạch vành 
Đau thắt ngực kháng trị 
-60% (P < 
0,002) 
-30% 
-22% (P < 
0,01) 
-15% 
-29% (P < 
0,015) 
-22% 
-18% (P < 
0,0001) 
-14% 
* Tiêu chí đánh giá chính: phối hợp các biến cố chết do mọi nguyên 
nhân, nhồi máu cơ tim cấp, đau thắt ngực kháng trị, suy tim mới mắc, đột 
quị gây tàn phế và tái tưới máu ngoại vi. 
NGHIÊN CỨU TALENT 
Nghiên cứu TALENT (a mulTicenter study evALuating the Efficacy of 
Nifedipine GITS-Telmisartan combination in blood pressure control and 
beyond) được thiết kế nhằm đánh giá hiệu quả kiểm soát huyết áp của phối 
hợp nifedipine GITS với telmisartan ở những bệnh nhân tăng huyết áp có 
nguy cơ tim mạch cao 7. Tiêu chuẩn chọn bệnh như sau: Tăng huyết áp chưa 
được điều trị hoặc chưa được kiểm soát (huyết áp tâm thu đo tại phòng khám 
> 135 mm Hg), tuổi 18-75, có tổn thương cơ quan đích (phì đại thất trái trên 
điện tim hoặc siêu âm tim hoặc albumin niệu vi lượng) hoặc đái tháo đường 
týp 2 hoặc hội chứng chuyển hóa. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên cho 
dùng phối hợp nifedipine GITS 20 mg/ngày + telmisartan 80 mg/ngày hoặc 
đơn trị bằng nifedipine GITS 20 mg/ngày hoặc đơn trị bằng telmisartan 80 
mg/ngày theo tỉ lệ 2:1:1. Sau 8 tuần, bệnh nhân ở 2 nhóm đơn trị đều được 
chuyển sang dùng phối hợp thuốc. Ở cả 3 nhóm điều trị kéo dài ít nhất 16 
tuần. Tiêu chí đánh giá là thay đổi huyết áp đo tại phòng khám sau 2 tuần, 8 
tuần, 16 tuần và 24 tuần và thay đổi huyết áp đo 24 giờ sau 8 tuần, 16 tuần 
và 24 tuần. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn đánh giá ảnh hưởng của điều 
trị trên mức bài xuất albumin trong nước tiểu và nồng độ huyết thanh của 
các chỉ điểm của phản ứng viêm (CRP, eotaxin-3, sRAGE - soluble 
receptors for advanced glycation end products). Trên hình 1 là sơ đồ thiết kế 
nghiên cứu TALENT. 
 Hình 1: Thiết kế nghiên cứu TALENT. 
Có tổng cộng 405 bệnh nhân được tuyển vào nghiên cứu. Kết quả 
bước đầu của TALENT vừa được công bố tại Hội nghị khoa học lần 20 của 
Hội Tăng huyết áp Châu Âu (tổ chức tại Oslo từ 18 đến 21/6/2010). Theo 
kết quả này, cả phối hợp thuốc lẫn đơn trị đều giảm có ý nghĩa huyết áp (đo 
tại phòng khám cũng như đo 24 giờ), tuy nhiên phối hợp thuốc giúp kiểm 
soát huyết áp sớm hơn. Về dài hạn, huyết áp của tất cả bệnh nhân đều được 
kiểm soát tốt. Trên bảng 2 là trị số huyết áp của bệnh nhân đo ở các thời 
điểm khác nhau. 
Bảng 2: Huyết áp bệnh nhân tham gia nghiên cứu TALENT (mm 
Hg). 
 Từ kết quả của TALENT, NICE-Combi và EX-FAST có thể rút ra kết 
luận là phối hợp thuốc chẹn canxi với thuốc chẹn thụ thể angiotensin giúp 
kiểm soát huyết áp một cách hữu hiệu và nhanh chóng. Từng thành phần 
trong phối hợp thuốc chẹn canxi với thuốc chẹn thụ thể angiotensin đều đã 
được chứng minh là có thể ngăn ngừa các biến cố tim mạch, do đó việc cho 
rằng phối hợp này giúp ngăn ngừa các biến cố tim mạch ở bệnh nhân tăng 
huyết áp là một suy nghĩ hoàn toàn lô-gích. Hơn nữa, phân tích số liệu của 
ACTION gợi ý phối hợp thuốc chẹn canxi nifedipine GITS với một thuốc 
chẹn thụ thể angiotensin hoặc ức chế men chuyển mang lại hiệu ứng hiệp 
đồng trên nguy cơ tim mạch. Nói tóm lại, dựa vào các chứng cứ hiện có, có 
thể khẳng định phối hợp thuốc chẹn canxi với thuốc chẹn thụ thể angiotensin 
rất hữu ích đối với bệnh nhân tăng huyết áp có huyết áp chưa được kiểm soát 
bởi đơn trị cũng như bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 16_7.pdf 16_7.pdf