Phật giáo là một tôn giáo lớn, đồng thời cũng là một học thuyết mang 
đậm tính triết học sâu sắc, được truyền bá rộng rãi ởcảNhật Bản, Việt 
Nam và nhiều nơi trên thếgiới. Trong những năm gần đây, với chủtrương 
cùng xây dựng quan hệhợp tác hai nước lên tầm đối tác chiến lược, Nhật 
Bản và Việt Nam đều dựa vào những nét tương đồng của mỗi quốc gia để
tìm nguồn lực tinh thần hợp tác, trong đó Phật giáo đã có một vịtrí đóng 
góp đáng kể. Việc nghiên cứu Phật giáo Nhật Bản với chủ đề“Ảnh hưởng 
của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ởxã hội Nhật Bản” vì lẽ đó, có ý 
nghĩa thiết thực, không chỉmặt thực tiễn mà cảvềlý luận văn hóa, chính 
trịvà tôn giáo. 
Với tính cách là một bộphận của đời sống tinh thần của xã hội, Phật 
giáo có ảnh hưởng, cảtích cực và tiêu cực, không chỉ đến đời sống tinh 
thần, mà đến đời sống xã hội nói chung. Những tác động tích cực và tiêu 
cực của Phật giáo nói riêng và các hiện tượng tôn giáo nói chung, đan xen 
và diễn biến phức tạp, trong lịch sửvà trong hiện tại. Có lẽdo tính phức 
tạp này, mà phương pháp tiếp cận các luận điểm vềPhật giáo và vềtôn 
giáo nói chung thường không thống nhất, thậm chí dẫn đến những tranh 
luận không nhỏvềtriết học và cảvềchính trị. Việc nghiên cứu ảnh hưởng 
của Phật giáo trong đời sống tinh thần của xã hội Nhật Bản, do đó, sẽgóp 
phần làm rõ hơn phương pháp tiếp cận và một sốluận điểm liên quan đến 
Phật giáo Nhật Bản. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
NGUYỄN THỊ THÚY ANH 
 ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI 
 ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở XÃ HỘI NHẬT BẢN 
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng 
 và chủ nghĩa duy vật lịch sử 
 Mã số: 62.22.80.05 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC 
HÀ NỘI - 2009 
Công trình được hoàn thành tại: 
 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn 
 Đại học Quốc gia Hà Nội 
 Người hướng dẫn khoa học: 
 GS.TS Nguyễn Hữu Vui 
 TS Hoàng Thị Thơ 
Phản biện: 
GS.TS Nguyễn Tài Thư 
PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt 
TS Nguyễn Thúy Vân 
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp nhà nước chấm 
luận án tiến sĩ họp tại: 
 …………………………………………………………… 
Vào hồi giờ ngày tháng năm 
Có thể tìm hiểu luận án tại: 
 - Thư viện Quốc gia Việt Nam 
 - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội 
 2
MỞ ĐẦU 
Tính cấp thiết của đề tài luận án 
Phật giáo là một tôn giáo lớn, đồng thời cũng là một học thuyết mang 
đậm tính triết học sâu sắc, được truyền bá rộng rãi ở cả Nhật Bản, Việt 
Nam và nhiều nơi trên thế giới. Trong những năm gần đây, với chủ trương 
cùng xây dựng quan hệ hợp tác hai nước lên tầm đối tác chiến lược, Nhật 
Bản và Việt Nam đều dựa vào những nét tương đồng của mỗi quốc gia để 
tìm nguồn lực tinh thần hợp tác, trong đó Phật giáo đã có một vị trí đóng 
góp đáng kể. Việc nghiên cứu Phật giáo Nhật Bản với chủ đề “Ảnh hưởng 
của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản” vì lẽ đó, có ý 
nghĩa thiết thực, không chỉ mặt thực tiễn mà cả về lý luận văn hóa, chính 
trị và tôn giáo. 
Với tính cách là một bộ phận của đời sống tinh thần của xã hội, Phật 
giáo có ảnh hưởng, cả tích cực và tiêu cực, không chỉ đến đời sống tinh 
thần, mà đến đời sống xã hội nói chung. Những tác động tích cực và tiêu 
cực của Phật giáo nói riêng và các hiện tượng tôn giáo nói chung, đan xen 
và diễn biến phức tạp, trong lịch sử và trong hiện tại. Có lẽ do tính phức 
tạp này, mà phương pháp tiếp cận các luận điểm về Phật giáo và về tôn 
giáo nói chung thường không thống nhất, thậm chí dẫn đến những tranh 
luận không nhỏ về triết học và cả về chính trị. Việc nghiên cứu ảnh hưởng 
của Phật giáo trong đời sống tinh thần của xã hội Nhật Bản, do đó, sẽ góp 
phần làm rõ hơn phương pháp tiếp cận và một số luận điểm liên quan đến 
Phật giáo Nhật Bản. 
Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, Nhật Bản cũng như Việt 
Nam, đều phải dựa vào các nguồn lực tinh thần của xã hội để "ứng vạn 
biến", trong đó có Phật giáo. Phát huy các giá trị tinh thần của Phật giáo, 
trở thành một phần không thể thiếu, để bảo tồn và phát triển mỗi dân tộc 
một cách độc lập, tự chủ. Là một quốc gia đã đạt được trình độ phát triển 
kinh tế - xã hội cao nhưng lại có nhiều nét tương đồng với Việt Nam về 
đời sống tinh thần. Việt Nam có thể tham chiếu nhiều kinh nghiệm thành 
công của Nhật Bản trong việc phát huy giá trị Phật giáo, góp phần thúc 
 3
đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm sớm thoát khỏi tình 
trạng kém phát triển và có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng 
hiện đại vào năm 2020. Đề tài này có thể góp phần cung cấp một số luận 
điểm về vai trò của Phật giáo trong xu hướng phát triển chung của đất 
nước hiện nay, đồng thời góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa hai 
nước lên tầm chiến lược. 
 Tình hình nghiên cứu đề tài luận án 
Ngay từ giữa những năm 1960, tại Việt Nam, nhất là khu vực phía 
Nam, đã bắt đầu xuất hiện các công trình nghiên cứu có đề cập đến Phật giáo 
Nhật Bản. Các công trình này có dành một dung lượng khá lớn cho việc phân 
tích quá trình phát triển, những đặc điểm của Phật giáo Nhật Bản. Điển hình 
phải kể đến tác phẩm Lịch sử tư tưởng Nhật Bản của Thiền sư Thích Thiên 
Ân do Nhà xuất bản Phương Đông xuất bản tại Sài Gòn năm 1965, hay như 
tác phẩm hai tập Nhật Bản tư tưởng sử của tác giả Ishida Kazuyoshi do Tủ 
sách Kim văn Sài Gòn ấn hành năm 1972… Tuy nhiên, những nội dung về 
ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của Nhật Bản mới chỉ là 
những nét chấm phá, sơ lược và phần lớn dừng lại ở những phân tích dưới 
góc độ lịch sử tư tưởng. 
Sau khi Việt Nam thống nhất (1975), nhất là từ sau năm 1990, trong 
bối cảnh quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản phát triển với nhịp độ nhanh 
dẫn tới nhu cầu tìm hiểu văn hoá Nhật Bản ngày một đòi hỏi cao hơn, tại 
Việt Nam đã xuất hiện các công trình nghiên cứu về văn hoá, tư tưởng, tôn 
giáo Nhật Bản, trong số đó có rất nhiều chuyên khảo do các học giả Việt 
Nam thực hiện hoặc được dịch sang tiếng Việt có đề cập nghiên cứu Phật 
giáo Nhật Bản. Trước hết phải kể đến tác phẩm Những con đường tâm linh 
phương Đông gồm 2 tập do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin ấn hành năm 
2000, Nghiên cứu Tôn giáo Nhật Bản của Joseph M.Kitagawa do Nhà xuất 
bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2002; Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện 
nay do Phạm Hồng Thái (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản 
năm 2005;… Nhìn chung những công trình này đều tiến sâu hơn một bước 
trong viện nghiên cứu đời sống tôn giáo Nhật Bản và ảnh hưởng của các 
 4
tôn giáo, trong đó có Phật giáo đối với đời sống xã hội Nhật Bản. Tuy 
nhiên, nếu nhìn một cách hệ thống thì ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời 
sống tinh thần xã hội Nhật Bản đã diễn ra như thế nào? Hiện nay, Phật 
giáo đóng vai trò gì đối với sự phát triển văn hoá và xã hội của xã hội Nhật 
Bản? Nhất là từ việc xem xét những ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn 
hoá xã hội Nhật Bản có thể rút ra những gợi ý gì cho công cuộc xây dựng 
nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam?.. vẫn còn là những 
vấn đề tiếp tục cần được làm sáng tỏ.. 
Luận án này sẽ góp phần trả lời câu hỏi đó từ góc độ nghiên cứu 
“Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản”. 
Thêm nữa, đề tài này được vận dụng lý luận về chủ nghĩa duy vật biện 
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử là một hướng tiếp cận khác so với các 
công trình đã có, và đề tài này còn góp phần cùng nghiên cứu vai trò của 
Phật giáo trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế 
của Việt Nam, đặc biệt trong đối tác chiến lược với Nhật Bản hiện nay. 
 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 
 Trên cơ sở khái quát các giai đoạn phát triển, các đặc trưng nhận diện 
của Phật giáo Nhật Bản, luận án tập trung đánh giá các nhân tố và ảnh 
hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần xã hội Nhật Bản, nêu lên 
một số so sánh với Phật giáo Việt Nam và rút ra một số bài học cần thiết. 
 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án 
Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời 
sống tinh thần trong phạm vi đạo đức, văn hoá, lối sống ở xã hội Nhật Bản 
theo hai thời kỳ cơ bản: trước hiện đại và trong quá trình hiện đại hoá ngày 
nay từ góc độ triết học-tôn giáo. 
 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 
Vận dụng lý luận triết học DVBC&DVLS; tư tưởng Hồ Chí Minh; 
đường lối, luật pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn 
giáo nói chung; đồng thời vận dụng kết hợp các PPNC chung của khoa học 
xã hội như phân tích, so sánh, hệ thống, khái quát và kết hợp với các 
 5
PPNC của văn hóa học, sử học, tôn giáo học,… trên cơ sở tiếp thu thành 
tựu có liên quan và từ những tài liệu sẵn có. 
 Đóng góp mới về khoa học của luận án 
 Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống ảnh hưởng của Phật giáo 
đến một số mặt trong đời sống tinh thần của xã hội Nhật Bản trước hiện 
đại và hiện đại, góp phần hiểu sâu hơn về Phật giáo của Nhật bản. 
 Chỉ ra một số điểm tương đồng và khác biệt cơ bản để khai thác trong 
quan hệ hợp tác giữa hai nền văn hoá hiện nay. 
 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 
 Góp phần cung cấp một số luận cứ khoa học cho việc hoạch định 
chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước đối với tôn giáo; giữ gìn và 
phát huy bản sắc dân tộc cũng như phát triển đời sống văn hoá tinh thần 
của dân tộc. 
 Làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên 
ngành Tôn giáo học và Triết học tôn giáo; hỗ trợ cho công tác quản lý tôn 
giáo. 
 Kết cấu của luận án 
Ngoài phần mở đầu, các công trình đã công bố của tác giả, danh mục 
tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận án gồm 3 chương, 7 tiết. 
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN 
Chương 1 
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NHẬT BẢN 
1.1. Sự hình thành và phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản 
1.1.1. Sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản 
- Điều kiện tự nhiên và xã hội của Nhật Bản 
Điều kiện tự nhiên của Nhật Bản khá đa dạng, khí hậu ôn đới, đã 
ảnh hưởng đến tính cách, tâm lý người Nhật, như rèn luyện tinh thần dũng 
cảm, tính tiến thủ. Ngoài ra, người Nhật cũng khá cởi mở, nặng tính thực 
dụng với một bản lĩnh thép được hun đúc qua quá trình phát triển của đất 
 6
nước. Ý thức về tinh thần liên kết trong thị tộc và niềm tin vào tầm quan 
trọng của các quyền lợi và uy quyền cha truyền con nối, là sức mạnh luôn 
chiếm ưu thế trong suốt lịch sử của Nhật Bản và vẫn còn rất sống động 
trong nước Nhật hiện đại. Tính thống nhất cao về chủng tộc (người Nhật 
chiếm 99,5% dân số) và điều kiện tự nhiên - lịch sử có tính độc lập của 
một quần đảo, đã tạo nên sự thống nhất dân tộc cao độ, từ đó là sự thống 
nhất tôn giáo trên cơ sở tôn giáo bản địa (Thần Đạo); và cũng có thể nói, 
Phật giáo từ một tôn giáo ngoại nhập, đã trở thành tôn giáo bản địa trên 
nhiều phương diện khác nhau. 
 - Cách thức tổ chức xã hội 
Xã hội Nhật Bản truyền thống tồn tại trên những nguyên tắc của một 
nền quân chủ. Chính quyền Trung ương của Thiên hoàng có quyền lực cai 
quản các tộc người khác, Thiên hoàng thường đại diện cho một tộc người 
lớn mạnh nhất và được coi là sứ giả, đại diện cho thần dân trong mối quan 
hệ với thần thánh. Những tộc người khác mặc dù thần phục Thiên hoàng 
nhưng vẫn có quyền lực độc lập, vẫn có khả năng kiểm soát đất đai và cư 
dân của mình. Vì vậy, Quyền lực của Thiên hoàng mang tính tôn giáo 
nhiều hơn là tính chính trị. Các đại thần, thường là những người đứng đầu 
các dòng họ quý tộc, họ là các chúa đất có quyền lực; quyền lực ấy đươc 
duy trì theo kiểu cha truyền con nối về mặt tôn giáo. Tùy theo tương quan 
lực lượng giữa các dòng họ mà quy định dòng họ nào được đảm nhiệm 
chức năng gì. 
- Sự tác động của tín ngưỡng dân tộc 
Phật giáo du nhập vào Nhật Bản trong bối cảnh người Nhật đã có 
một truyền thống tín ngưỡng khá vững chắc: tín ngưỡng về Thần (Kami). 
Phật giáo vào Nhật Bản trong điều kiện xã hội đang ở giai đoạn xã hội thị 
tộc, mỗi thị tộc chỉ thờ Thần của thị tộc mình. Bởi vậy, việc thờ cúng của 
Thần đạo hết sức đa dạng, sự đa dạng của các Thần là sự biểu hiện của lối 
tư duy khá phổ biến của người Nhật Bản: niềm tin đa dạng và hỗn tạp dẫn 
đến đối tượng thờ cúng cũng đa dạng, hỗn tạp. Thực trạng này phản ánh 
thực tế phân biệt tín ngưỡng giữa các thị tộc trên quần đảo Nhật Bản, nó 
 7
không tạo cơ sở tinh thần cho sự thống nhất của quốc gia Nhật Bản. Vì 
những lẽ trên, nên từ buổi đầu du nhập, Phật giáo luôn góp phần bổ sung, 
bù đắp cho những điều mà Thần đạo không thể có. Do đó xuất hiện xu 
hướng hỗn dung, vay mượn lẫn nhau giữa Thần và Phật, trong đó yếu tố 
trội là Thần. 
- Giao lưu văn hóa 
 Do sự biệt lập và thiếu những mối giao lưu văn hóa mà so với Triều 
Tiên, Trung Hoa, trình độ văn minh của Nhật Bản lúc đó thấp hơn, đến 
gần cuối thế kỷ VII mới có sự gia tăng đột ngột trong quá trình du nhập 
các yếu tố của văn hóa Trung Hoa vào Nhật Bản. Những tiếp xúc, giao lưu 
văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Hoa lúc đầu thông qua vai trò của các 
thương gia, thợ thủ công hay tù binh hay qua những vật phẩm hữu hình có 
được trong các cuộc trao đổi. Dần dần những kiểu tiếp xúc đó trở nên thứ 
yếu và thay bằng cuộc tiếp xúc tôn giáo. Điều cần thấy ở đây là, Phật giáo 
lúc đó đã phát triển cực thịnh ở Trung Hoa và trở thành công cụ chuyển tải 
văn hóa quan trọng nhất từ Đại Lục sang Nhật Bản. Quá trình giao lưu, 
tiếp biến Phật giáo nói riêng và văn hóa nói chung ở Nhật Bản trải qua hai 
giai đoạn: tiếp nhận cái mới và kết hợp với bản sắc văn hóa truyền thống, 
và giao lưu, tiếp biến văn hóa cũng là nhân tố tác động vào quá trình du 
nhập, phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản. 
1.1.2. Quá trình tiếp biến của Phật giáo Nhật Bản 
Kể từ khi du nhập đến nay, Phật giáo Nhật Bản đã có lịch sử tồn tại 
khoảng 1500 năm. Trong khoảng thời gian đó, Phật giáo trải qua nhiều 
biến cố, liên quan chặt chẽ với sự phát triển của xã hội Nhật Bản. Có thể 
điểm qua các thời kỳ sau: 
Phật giáo thời kỳ Asuka (538 - 710) 
 Hai tông phái được truyền vào Nhật thời kỳ này là Tam luận tông 
(Sanron shu) và Pháp Tướng tông (Hosso shu ). Hai tông này truyền vào 
Nhật Bản hầu như nguyên bản, ngoài việc đạo, họ còn làm việc thiện là 
giúp dân đào giếng, đóng thuyền, bắc cầu… 
Phật giáo thời kỳ Nara - Nại Lương (710 - 794) 
 8
Trong thời kỳ Nara, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và khá đa dạng. 
Lúc này ở Nhật các tông phái Phật giáo chủ yếu: Thành thực tông (Jojisu 
shù); Câu xá tông (Kusha shù); Luật tông (Ritsu shù); Hoa Nghiêm tông 
(Kegon shù); Tam luận tông (Sanron shù); Pháp tướng tông (Hosso shù). 
Mặc dù có những dị biệt, song các tông phái đó đều phản ánh sự khao khát 
hướng tìm bản chất của vũ trụ; và để hướng đến nhận thức bản chất đó 
phải giải phóng tư duy khỏi mê chướng bởi ảo ảnh của giác quan. Thêm 
vào đó, chúng đều hướng con người tới những hoàn thiện mà trước hết là 
đạo lý làm người. 
Phật giáo thời kỳ Heian - Bình An (794 - 1185) 
Kết thúc thời kỳ Nara, Nhật Bản diễn ra tình trạng rối loạn về xã hội, 
đồi bại về chính trị do sự tranh giành quyền lực trong tầng lớp cầm quyền. 
Nhưng vẫn xuất hiện thêm ba tông phái Phật giáo: Thiên Thai tông; Chân 
Ngôn tông; Tịnh Độ tông. 
Như vậy, trong thời Heian, Phật giáo ở Nhật Bản có sự phát triển. 
Ngoài 6 tông phái đã có từ thời Nara, nay xuất hiện thêm nhiều tông phái 
khác và cũng có sự phân hóa giữa Phật giáo quý tộc và Phật giáo dân gian. 
Sự phát triển của Phật giáo một mặt, có sự nâng đỡ từ phía các tập đoàn 
cầm quyền, do nó đã đáp ứng lợi ích cá nhân của những kẻ quý tộc muốn 
tiến thân; mặt khác, tạo dựng được chỗ tựa về tư tưởng cho chính các 
Thiên Hoàng. Cũng thông qua Phật giáo, văn minh của Trung Hoa được 
du nhập, dù thời kỳ này quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Hoa càng về cuối 
càng tỏ ra lạnh nhạt và không thể sánh với thời kỳ Nara. Sự xung đột giữa 
các chùa, tu viện Phật giáo đã góp phần đẩy đất nước lâm vào tình trạng 
nội chiến. 
1.1.3. Phật Giáo Nhật Bản phát triển 
Phật giáo thời kỳ Kamakura - Kiếm Thương (1185 - 1333) 
 Trong thời kỳ này, Phật giáo có hai khuynh hướng mới. Một mặt, quay 
trở lại các tông phái của thời Nara; mặt khác là sự xuất hiện các tông phái 
mới trong Thiền tông. Do ảnh hưởng của chiến tranh; do sự sa đọa của 
tăng lữ; do quan hệ Nhật - Trung bắt đầu được thiết lập. Đồng thời, cũng 
 9
do nội chiến, tâm trạng con người bất an, … Những tác động trên đã làm 
cho tín ngưỡng Phật giáo được phục hồi, các tông phái thời Nara: Hoa 
Nghiêm tông; Pháp tướng tông; Luật tông; Tịnh Độ tông; Nhật Liên tông 
được phục hưng, ngoài ra Thiền tông được du nhập và phát triển . 
Sự phát triển của Thiền tông trong giai đoạn này đã đưa đến một sự 
dung hợp mới giữa Nho, Phật và tư tưởng của tầng lớp võ sĩ đạo. Trong 
thời kỳ Kamakura, Tịnh Độ tông, Nhật Liên tông và Thiền tông là ba dòng 
Phật giáo mới trở thành các tông phái đặc sắc của Nhật Bản. Trong thời kỳ 
Kamakura, có thể nói đã hình thành "Phật giáo Nhật Bản" bản xứ. Các vị 
đại sư thời kỳ này, bắt đầu viết các tư tưởng của mình bằng tiếng Nhật. 
Phật giáo thời Muromachi (1333- 1568) và Azuchi- Momoyama (1568 - 
1600) 
 Đối với Phật giáo thời kỳ này có sự phát triển mạnh mẽ của Thiền 
tông, Nhật Liên tông và Tịnh Độ tông. Cả ba tông phái trên đều có quan hệ 
mật thiết với đời sống xã hội, trở thành trung tâm tinh thần - tôn giáo và cả 
kinh tế của xã hội. Nhà chùa đã tiến hành hàng loạt hoạt động kinh tế, như 
tổ chức các ngân hàng địa phương, kinh doanh dược liệu, quán trọ, phòng 
tắm … Vì vậy thế lực kinh tế của các chùa, tu viện rất hùng hậu. Ngoài ra 
chùa, tu viện còn trở thành các trung tâm học thuật. Nhà chùa kèm luôn 
chức năng của nhà trường. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, dấu ấn của 
Phật giáo cực kỳ sâu đậm. 
Phật giáo thời kỳ Edo - Giang Hộ (1600 - 1868) 
Mặc dù trong thời kỳ Muromachi và Azuchi - Momoyama, Phật giáo 
tiếp tục có những bước phát triển mới; nhưng do đấu tranh nội bộ, xung 
đột bạo lực giữa các tông phái gia tăng cũng như sự lạm dụng Phật giáo để 
tăng cường quyền lực thế tục nên vào cuối thời kỳ này, Phật giáo sa sút. 
Sự sa sút đó còn do sự lớn mạnh trở lại của tư tưởng Nho giáo, Thần đạo 
và sự cạnh tranh của Cơ Đốc giáo (được du nhập vào Nhật năm 1549). 
Thêm vào đó, do chính sách mới của giới lãnh chúa phong kiến nên Phật 
giáo trở nên xơ cứng, thiếu sinh động và rơi vào trạng thái trì trệ. 
 10
Trong thời kỳ này, ngoài hai phái Thiền tông đã có từ thời 
Muromachi (Tào Động và Lâm tế) còn xuất hiện thêm phái Thiền thứ ba là 
Hoàng Bá. 
Mặc dù việc nghiên cứu kinh điển, giáo lý Phật giáo có những tiến 
triển, song ở thời kỳ này, do tư tưởng bị các Mạc Phủ khống chế nên tính 
chất giáo điều của Phật giáo gia tăng. Lịch sử gọi Phật giáo thời này là 
Phật giáo đọc kinh. Đây là thời kỳ truyền thống Thần - Phật hợp nhất dần 
dần bị mai một, nhường chỗ cho sự khôi phục vị thế quốc đạo của Thần 
đạo vào thời kỳ Minh Trị duy tân. 
Phật giáo từ thời Meiji - Minh Trị 
Trong những năm đầu thời kỳ Minh Trị, các tổ chức tôn giáo có sức 
mạnh đáng kể trong chính phủ. Kiểu tổ chức tôn giáo như vậy không có vị 
trí chính thức trong chính quyền, nhưng uy thế tôn giáo đối với Thiên 
Hoàng vẫn là một thứ vũ khí đầy quyền lực. Những nghi thức cổ xưa liên 
quan tới Thiên Hoàng đã được chính thức hóa trong Thần đạo. Do đó, Phật 
giáo lâm vào một giao đoạn cực kỳ khó khăn. Để tồn tại, Phật giáo phải tự 
thích nghi và đổi mới. Phật giáo trở thành thế lực cổ vũ cho chủ nghĩa đế 
quốc đương thịnh hành ở Nhật Bản, và trở thành đồng minh của chủ nghĩa 
"Đại Đông Á" của quân phiệt Nhật. Nhiều đảng phái chính trị của Phật 
giáo hình thành mà lớn nhất là Sokagakkai (Sáng giá học hội) (1945), có 
liên hệ với Kômeitô (Đảng Công Minh) với trên 10 triệu tín đồ. 
Quá trình tiếp xúc văn hóa Đông - Tây, ở thời kỳ từ sau Minh Trị, 
nhất là bước vào đầu thế kỷ 20, đã xuất hiện hàng loạt tông phái, hội đoàn 
của các tôn giáo. Riêng Phật giáo, theo thống kê niên giám Tôn giáo xuất 
bản năm 1950, đã từ 13 tông, 56 phái tăng vọt lên 162 phái. Sau chiến 
tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản bị quân đồng minh chiếm đóng. Chính 
sách tự do tín ngưỡng đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các tôn giáo 
ngoài Thần đạo như Phật giáo, Tin lành, nhiều hiện tượng tôn giáo mới nổi 
lên như Ômoto, Aum…. 
Trong Phật giáo, lần đầu tiên đã có tổ chức thống nhất lấy tên là Hội 
Liên hiệp Phật giáo theo kết quả của đại hội họp năm 1915 (năm thứ 4 Đại 
 11
Chính). Đại hội này đã thông qua hai Nghị quyết về vấn đề tham chính và 
xác lập hành chính tôn giáo. Một xu hướng khác của Phật giáo ở Nhật Bản 
từ sau Minh Trị (1912) là phát tán ra nước ngoài. 
Tóm lại, có thể nói rằng so với một số nước khác trong khu vực, thời 
điểm Phật giáo du nhập vào Nhật Bản muộn hơn. Nhưng nhờ sự nâng đỡ 
của chính quyền mà Phật giáo có quá trình phát triển khá liên tục, nên 
nhanh chóng trở thành một tôn giáo lớn của Nhật Bản. Phật giáo được du 
nhập vào Nhật Bản chủ yếu từ Trung Hoa và Triều Tiên. Vì lẽ ấy, Phật 
giáo Nhật Bản mang đậm dấu vết của văn hóa Trung Hoa nhất là trong 
những thời kỳ đầu. Đến thời kỳ Kamakura (1185- 1333) đã hình thành 
Phật giáo "dân tộc Nhật Bản". 
Cho đến nay, Phật giáo Nhật Bản vẫn có đặc điểm phát triển đa dạng 
của các giáo phái, và chỉ giữ lại những giáo phái phù hợp với yêu cầu của 
xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử. Đây là tính quy luật xuyên suốt các giai 
đoạn phát triển của Phật giáo nước này. 
1.2. Những đặc trưng chủ yếu của Phật giáo Nhật Bản 
1.2.1. Nhận diện Phật giáo Nhật Bản 
 Phật giáo Nhật Bản là một khối kết hợp của nhiều trường phái, tông 
phái, nhánh phái và chi phái. Việc thực hành tôn giáo của các tông phái 
Phật giáo cũng rất khác nhau. Có thể khái quát 6 đặc điểm của mô hình 
Phật giáo Nhật Bản: Một là, Phật giáo Nhật Bản có tính dân tộc chủ nghĩa; 
hai là, Phật giáo Nhật Bản là một thuyết được thu gọn của hỗn dung Thần 
- Phật, duy trì mãi cho tới tận thế kỷ thứ XIX; ba là, Phật giáo Nhật Bản đã 
hạ thấp xuống tới trình độ tập tục và tín ngưỡng tôn giáo ma thuật; bốn là, 
Phật giáo Nhật Bản có khuynh hướng phụ thuộc vào những phẩm chất 
thánh thiện của các lãnh đạo tôn giáo; năm là, Phật giáo Nhật Bản có thiên 
hướng hiểu ý nghĩa của cuộc sống và thế giới theo lối thẩm mỹ hơn là đạo 
đức siêu hình; sáu là, Phật giáo Nhật Bản khẳng định tính tối hậu của thế 
giới tự nhiên. 
 12
1.2.2. Bốn đặc trưng chủ yếu của Phật giáo Nhật Bản 
Trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước mặt trời mọc, lại bộc lộ rõ 
một số đặc điểm của Phật giáo. Nhưng xem xét toàn bộ quá trình phát triển 
của Phật giáo ở nước này, kể cả thực trạng Phật giáo hiện nay, có thể khái 
quát một số đặc điểm chung của Phật giáo Nhật Bản như sau: 
Tính dân tộc trên cơ sở tổng hợp các yếu tố tôn giáo ngoại lai và bản 
địa: Nét đặc trưng cho đặc điểm dân tộc chủ nghĩa của Phật giáo Nhật Bản 
là, về giáo lý, nó dựa vào thuyết Thần - Phật hỗn hợp, thậm chí nó dựa vào 
cả Khổng giáo và lễ nghi thờ tổ tiên nói riêng và Thần đạo nói chung của 
Nhật Bản. Về niềm tin tôn giáo, trong quá trình phát triển, Phật giáo Nhật 
Bản, dù có bị ảnh hưởng bởi những học thuyết tư tưởng khác nhau thì 
niềm tin các vị thần Nhật Bản là hiện thân của các Phật và Bồ tát Ấn Độ 
vẫn không thay đổi. Nghĩa là tất cả những gì là đặc trưng cho tính dân tộc 
chủ nghĩa của Phật giáo Nhật Bản đều là sự kết hợp giữa các yếu tố Nhật 
Bản với các yếu tố ngoại lai (Phật giáo Triều Tiên, Trung Quốc và Khổng 
giáo Trung Quốc). Nhưng kết quả thì hòan toàn mang tính Nhật Bản, từ 
vai trò "bảo hộ quốc gia" của Phật giáo, đến Thiền và Trà đạo, Hoa Đạo, 
Kịch No, nghệ thuật Thư pháp…Phật giáo Nhật Bản coi nghi lễ thờ cúng 
Taishi (Thái tử) ngang với nghi lễ thờ cúng Thích Ca Mẫu Ni (Thái tử Tất 
Đạt Đa) và Di lặc (Thái tử Ajita). Mặc dù chỉ là một cư sĩ, nhưng Thái tử 
Shotoku, được Phật tử tôn kính như một lãnh tụ tinh thần hoặc là hiện thân 
đức Phật tổ Nhật Bản. 
Tính thế tục sâu sắc của Phật giáo Nhật Bản: Đặc điểm dân tộc hóa (bản 
địa hóa) và thế tục hóa là cách thức phát triển Phật giáo và cả Kitô giáo, 
hai tôn giáo thế giới phát triển được ở những đất nước không phải nơi sinh 
ra nó. Đặc điểm thế tục hóa (và dân tộc hóa) của Phật giáo Nhật Bản, sở dĩ 
sâu sắc hơn so với nhiều nước khác là bởi mức độ ứng xử với các giáo lý, 
nghi lễ Phật giáo trong đời sống xã hội. Nghi lễ có tính tôn giáo ở Nhật 
Bản ngày nay chủ yếu được thể hiện qua các thói quen xã hội giản dị 
(phong tục, tập quán, lễ hội), tức là bằng những khuôn mẫu ứng xử thường 
nhật, nhằm làm giàu tính người trong quan hệ cộng đồng. 
 13
Mặt khác, đặc điểm thế tục hóa thể hiện ngay từ động cơ, cách thức, 
du nhập Phật giáo bằng con đường thoát khổ được thể hiện thông qua hành 
động làm giàu tính người trong quan hệ cộng đồng. Đặc biệt, tính thế tục 
hóa sâu sắc ở Phật giáo Nhật Bản thể hiện qua Thiền. Thiền không chỉ là 
một tông phái Phật giáo mà trở thành cách thức ứng xử trong đời sống xã 
hội, từ tư tưởng, đạo đức, lối sống đến hoạt động chính trị, sản xuất - kinh 
doanh, văn hóa nghệ thuật. Qua đó, Thiền từ chỗ là một triết lý khi vào 
Nhật Bản đã trở thành hành vi đạo đức để ứng xử hoặc để cai trị xã hội. 
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, dưới tác động của Hiến pháp 
Nhật Bản (1946), sau đó là Luật pháp nhân tôn giáo, đã tách tôn giáo khỏi 
chính trị, khỏi Nhà nước và cho phép tự do tôn giáo. Quá trình đó cũng là 
quá trình thế tục hóa tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. 
Sự đa dạng của các giáo phái: Ngày nay cũng như trong lịch sử, Phật 
giáo Nhật Bản có nhiều giáo phái khác nhau. Phật tử Nhật Bản có đặc 
điểm là tu luyện theo Sơn môn. Cho đến năm 1915, Phật giáo nước này 
mới có tổ chức thống nhất là Hội liên hiệp Phật giáo. Các tông phái Phật 
giáo Nhật Bản có từ mức độ Thiền định cho tới mức độ có tính cuồng tín 
của tín đồ phái Liên tông; và từ mức độ tranh luận rắc rối về thực tại của 
Thiên Thai tông tới các lễ nghi tỷ mỷ chi tiết của Chân Ngôn tông. Giáo lý 
của những tông phái này cũng không kém phần đa dạng so với các hoạt 
động thực tiễn của chúng. Bởi lẽ, tín đồ của các tông phái này gồm những 
người có tư tưởng triết học ở tầng lớp trên và cả những người cuồng tín 
nhất thuộc các tầng lớp bình dân. 
Từ đầu thập niên 70 thế kỷ XX, với sự xuất hiện của các tổ chức 
"Tôn giáo mới - mới", "Thần minh nhỏ - nhỏ", số lượng tổ chức tôn giáo 
có thiên hướng Phật giáo gia tăng. Theo niên giám tôn giáo năm 1994 của 
Nhật Bản thì đến cuối năm 1993 nước này có 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 7842nh h4327903ng c7911a Ph7853t gio 2737889i v7899i 2737901.pdf 7842nh h4327903ng c7911a Ph7853t gio 2737889i v7899i 2737901.pdf