Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên

Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 20 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, đã đem lại cho đất nước một sự thay đổi cơ bản, toàn diện làm cho thế và lực của nước ta không ngừng lớn mạnh trên trường quốc tế.

Trong những lĩnh vực đổi mới thì đổi mới hệ thống chính trị, trong đó đổi mới tổ chức hoạt động của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng góp phần ngày càng hoàn thiện cơ cấu và cơ chế tổ chức hoạt động, chất lượng hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng được bảo đảm. Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội ngày càng hiệu quả, tính pháp quyền ngày càng rõ rệt phù hợp với bối cảnh mới của đất nước thời đại.

Nhất quán đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng IX, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, thực hiện tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đồng thời gắn việc thực hiện chủ trương này với việc thực hiện ba cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nước, gồm cải cách lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Thực hiện cải cách tư pháp là nhằm “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, kiện toàn các cơ quan tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả. lấy cải cách tổ chức và hoạt động xét xử làm trung tâm”.

Thực hiện mục tiêu trên các hoạt động cải cách tư pháp đã diễn ra mạnh mẽ, trên tất cả các yếu tố cấu trúc của nền tư pháp, với nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần thực hiện công bằng xã hội, phục vụ tích cực vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, và mới chỉ tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Hoạt động tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đối với hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động kiểm sát xét xử (KSXX) sơ thẩm án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) còn có những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong thực tế còn xảy ra tình trạng oan sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử, đội ngũ Kiểm sát viên (KSV), kiểm sát xét xử án hình sự còn nhiều yếu kém về nhận thức pháp luật, về năng lực trình độ, chưa phát huy được hết vai trò trách nhiệm khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tài liệu, nội dung đề cương, thẩm vấn tại phiên toà của KSV chưa được chú trọng. Hoạt động tranh tụng giữa KSV với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng chất lượng chưa cao. Những tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để có các quan điểm, giải pháp tháo gỡ có tính đồng bộ, khả thi. Mặt khác, về phương diện lý luận, quan điểm của Đảng về những định hướng lớn đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, nhất là việc chuyển tổ chức Toà án theo đơn vị hành chính sang theo thẩm quyền xét xử, tiến tới Viện kiểm sát sẽ trở thành Viện Công tố, thực hiện chỉ đạo điều tra đã và đang đặt ra những vấn đề lý luận, đòi hỏi phải giải quyết để có những phương án cải cách mang tính khoa học và thực tiễn.

Đối với VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên việc thực hiện cải cách tư pháp những năm qua đã có nhiều đổi mới, chất lượng công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, trong đó có các vụ án mà bị cáo là người dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng được bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Thái Nguyên với dân số hơn 1 triệu người, có 10 dân tộc cùng sinh sống (Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ, Sán chay, H'mông, Hoa), tình hình tội phạm hình sự vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, đối tượng phạm tội là người DTTS chiếm tỷ lệ cao, nhiều trường hợp phạm tội nghiêm trọng, như cướp tài sản, giết người, cố ý gây thương tích, hiếp dâm, cưỡng đoạt tài sản. ngày càng tăng. Chất lượng hoạt động KSXX án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, nhất là trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự mà đối tượng phạm tội là người DTTS. Trước thực trạng và yêu cầu nghiên cứu lý luận trên, đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên" là hết sức cần thiết và cấp bách đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.

 

doc123 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 20 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, đã đem lại cho đất nước một sự thay đổi cơ bản, toàn diện làm cho thế và lực của nước ta không ngừng lớn mạnh trên trường quốc tế. Trong những lĩnh vực đổi mới thì đổi mới hệ thống chính trị, trong đó đổi mới tổ chức hoạt động của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng góp phần ngày càng hoàn thiện cơ cấu và cơ chế tổ chức hoạt động, chất lượng hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng được bảo đảm. Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội ngày càng hiệu quả, tính pháp quyền ngày càng rõ rệt phù hợp với bối cảnh mới của đất nước thời đại. Nhất quán đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng IX, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, thực hiện tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đồng thời gắn việc thực hiện chủ trương này với việc thực hiện ba cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nước, gồm cải cách lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Thực hiện cải cách tư pháp là nhằm “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, kiện toàn các cơ quan tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả... lấy cải cách tổ chức và hoạt động xét xử làm trung tâm”. Thực hiện mục tiêu trên các hoạt động cải cách tư pháp đã diễn ra mạnh mẽ, trên tất cả các yếu tố cấu trúc của nền tư pháp, với nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần thực hiện công bằng xã hội, phục vụ tích cực vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, và mới chỉ tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Hoạt động tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đối với hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động kiểm sát xét xử (KSXX) sơ thẩm án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) còn có những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong thực tế còn xảy ra tình trạng oan sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử, đội ngũ Kiểm sát viên (KSV), kiểm sát xét xử án hình sự còn nhiều yếu kém về nhận thức pháp luật, về năng lực trình độ, chưa phát huy được hết vai trò trách nhiệm khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tài liệu, nội dung đề cương, thẩm vấn tại phiên toà của KSV chưa được chú trọng. Hoạt động tranh tụng giữa KSV với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng chất lượng chưa cao. Những tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để có các quan điểm, giải pháp tháo gỡ có tính đồng bộ, khả thi. Mặt khác, về phương diện lý luận, quan điểm của Đảng về những định hướng lớn đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, nhất là việc chuyển tổ chức Toà án theo đơn vị hành chính sang theo thẩm quyền xét xử, tiến tới Viện kiểm sát sẽ trở thành Viện Công tố, thực hiện chỉ đạo điều tra đã và đang đặt ra những vấn đề lý luận, đòi hỏi phải giải quyết để có những phương án cải cách mang tính khoa học và thực tiễn. Đối với VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên việc thực hiện cải cách tư pháp những năm qua đã có nhiều đổi mới, chất lượng công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, trong đó có các vụ án mà bị cáo là người dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng được bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Thái Nguyên với dân số hơn 1 triệu người, có 10 dân tộc cùng sinh sống (Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ, Sán chay, H'mông, Hoa), tình hình tội phạm hình sự vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, đối tượng phạm tội là người DTTS chiếm tỷ lệ cao, nhiều trường hợp phạm tội nghiêm trọng, như cướp tài sản, giết người, cố ý gây thương tích, hiếp dâm, cưỡng đoạt tài sản... ngày càng tăng. Chất lượng hoạt động KSXX án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, nhất là trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự mà đối tượng phạm tội là người DTTS. Trước thực trạng và yêu cầu nghiên cứu lý luận trên, đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên" là hết sức cần thiết và cấp bách đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp", vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật hình sự trong hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự nói riêng của ngành kiểm sát luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý, và đã có nhiều công trình khoa học được công bố đến vấn đề này, đáng chú ý là các công trình sau: - VKSND tối cao "Những giải pháp xây dựng đội ngũ KSV cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay" (2002). Đề tài khoa học cấp Bộ do Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đội ngũ KSV xác định những nguyên nhân, tồn tại, đề ra biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ KSV cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. - Trịnh Khắc Triệu, "Nâng cao trách nhiệm của KSV trong việc thực hành quyền công tố tại các phiên toà xét xử án hình sự", Tạp chí Kiểm sát số 08 năm 2002. Bài viết đã nghiên cứu làm rõ hoạt động thực hành quyền công tố của KSV tại phiên toà, những vấn đề KSV cần thực hiện tốt trong kiểm sát tại các phiên toà xét xử án hình sự. - Vũ Mộc, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh luận tại phiên toà" (2004) đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học VKSND tối cao chủ trì đề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vận dụng tranh tụng tại phiên toà, đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tranh tụng tại phiên toà hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQTW của Bộ Chính trị khoá IX. - Dương Thanh Biểu, "Tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Kiểm sát số 24 năm 2005. Bài viết đã tập trung trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng hoạt động tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự và đề xuất phương hướng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự. Luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận về tố tụng hình sự trong bảo đảm quyền con người, trong đó có những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của KSV qua thực hiện quyền công tố và KSXX để bảo vệ có hiệu quả quyền con người của bị can, bị cáo. - Nguyễn Mạnh Hà, "Trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2008). Luận văn đã xây dựng khái niệm trách nhiệm của KSV, những yêu cầu đối với KSV trong thực hiện trách nhiệm thực hành quyền công tố và KSXX trong các phiên toà hình sự, các giải pháp bảo đảm trách nhiệm đó theo yêu cầu cải cách tư pháp. - Nguyễn Đức Phúc, "Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay" Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên ngành, các sách chuyên khảo của các nhà khoa học pháp lý nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài của luận văn. Tuy nhiên có thể thấy cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS, nhất là lại ở một tỉnh có nhiều DTTS như tỉnh Thái Nguyên hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, từ đó đề xuất các luận chứng các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động đó đáp ứng những yêu cầu đặt ra hiện nay. - Nhiệm vụ: Phù hợp với mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau + Phân tích cơ sở lý luận hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS, như khái niệm, đặc điểm và những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS. + Xác định các yêu cầu và điều kiện bảo đảm cho hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng các yêu cầu đặt ra hiện nay. + Khảo sát thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, thông qua hoạt động của KSV ở các giai đoạn chuẩn bị xét xử; giai đoạn xét xử và giai đoạn kết thúc phiên toà, xác định những nguyên nhân của những ưu điểm và tồn tại cần khắc phục. + Đề xuất luận chứng, quan điểm, và giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS theo BLHS, BLTTHS Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, và chỉ giới hạn ở giai đoạn xét xử (gồm: các hoạt động trước, trong và sau xét xử). Về thời gian, trong khoảng thời gian 5 năm (2004 - 2008), cả về phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy hoạt động KSXX và hoạt động thực hành quyền công tố của KSV tại phiên toà hình sự có quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Vì lẽ đó, luận văn trong nhiều vấn đề không thể không đề cập đến việc thực hành quyền công tố của KSV nhất là những vấn đề trực tiếp liên quan đến KSXX án hình sự. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm mang tính lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới, về cải cách tư pháp và chính sách dân tộc. Luận văn cũng dựa trên cơ sở lý luận của các bộ môn khoa học pháp lý chuyên ngành, trực tiếp là bộ môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật, khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, trực tiếp sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số các phương pháp của các bộ môn khoa học khác, như phương pháp của lý thuyết hệ thống, phương pháp của khoa học thống kê, phương pháp xã hội học. Các phương pháp của triết học Mác-Lênin có ý nghĩa phương pháp luận, được luận văn sử dụng đồng thời để giải quyết các nhiệm vụ được đặt ra: phương pháp của khoa học thống kê, xã hội học, được sử dụng chủ yếu trong khảo sát tình hình phạm tội và đánh giá thực trạng, phương pháp lý thuyết hệ thống bảo đảm tính toàn diện, nhất quán, sự cân đối và liên thông giữa các nội dung của luận văn. 6. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn Từ kết quả đạt được luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau: - Phân tích làm nổi bật các đặc điểm của hoạt động KSXX án hình sự đối với bị cáo là người DTTS. - Xác định các yếu tố ảnh hưởng, những yêu cầu, điều kiện bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, rút ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó hiện nay. - Luận chứng và đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu đặt ra hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên những cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên. Do vậy kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần phát triển cơ sở lý luận nhằm bảo đảm cho hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với các bị cáo là người DTTS, có giá trị tham khảo trực tiếp cho VKSND tỉnh Thái Nguyên. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật ở tỉnh Thái Nguyên cũng như các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác trên phạm vi cả nước. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM 1.1. HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.1.1. Khái niệm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự Hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự là hoạt động kế tiếp hoạt động kiểm sát điều tra, là quá trình kiểm tra lại các kết quả của hoạt động điều tra và hoạt động kiểm sát điều tra, nhằm bảo vệ quan điểm truy tố của VKSND. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự được bắt đầu khi hồ sơ vụ án được chuyển đến Toà án nhân dân, TAND quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên toà, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án và thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên toà. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố là loại hình hoạt động đặc trưng của VKSND được Hiến pháp và pháp luật qui định. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và Điều 16 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định: “Trong hoạt động kiểm sát xét xử các vụ án hình sự VKSND có trách nhiệm thực hành quyền công tố đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [17]. Như vậy, trong giai đoạn kiểm sát xét xử án hình sự, VKSND thực hiện đồng thời hai hoạt động là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân. Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử là truy tố người có hành vi phạm tội ra trước Toà án nhân dân, còn hoạt động kiểm sát xét xử là bảo đảm việc thực hiện theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất theo đúng qui định của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để làm rõ khái niệm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, cần làm rõ một số vấn đề sau: - Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự là một trong các hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.Theo qui định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001), chức năng của VKSND đã được điều chỉnh, theo đó là VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính - kinh tế - xã hội mà chỉ tập trung thực hiện chức năng "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp". Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định kiểm sát hoạt động tư pháp gồm: + Hoạt động kiểm sát điều tra. + Hoạt động kiểm sát xét xử. + Hoạt động kiểm sát thi hành án. + Hoạt động kiểm sát tạm giam, tạm giữ, cải tạo phạm nhân. Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định của VKSND, có nội dung giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất [18, tr.62]. Khác với hoạt động thực hành quyền công tố nhà nước, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự của VKSND không chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử mà còn được tiến hành ở cả giai đoạn thi hành án, trong đó hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có mục đích là nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời. - Đối tượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm án hình sự là kiểm sát việc tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất của cơ quan tiến hành tố tụng (Toà án nhân dân), của người tiến hành tố tụng (thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân), và những người tham gia tố tụng gồm: (bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người giám định, người phiên dịch). Trong quá trình kiểm sát, VKSND ngoài việc xem xét TAND có tuân thủ chấp hành các qui định của BLTTHS (năm 2003) như: các qui định về thủ tục tố tụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, các qui định tố tụng chung tại phiên toà như: xét hỏi, tranh luận, nghị án... mà còn xem xét việc áp dụng pháp luật hình sự và đường lối xử lý của Toà án có đảm bảo đúng pháp luật qui định hay không, nếu có vi phạm, thì tiến hành kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. BLTTHS (năm 2003) qui định trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự có các trình tự thủ tục như: Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, và việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Ở những giai đoạn xét xử khác nhau thì nhiệm vụ quyền hạn và nội dung kiểm sát xét xử của VKSND có những đặc điểm khác nhau, bởi do tính chất pháp lý của từng hình thức phiên toà qui định. - Phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự Phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đang là một vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự chỉ bắt đầu khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tức là khi Toà án xác định một vụ án đã có đủ điều kiện để đưa ra xét xử. Điều đó có nghĩa ở giai đoạn chuẩn bị xét xử Toà án có thể đình chỉ vụ án hoặc VKS có thể rút quyết định truy tố, và đó không thuộc phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự. Có ý kiến lại cho rằng theo quy định tại Điều 17 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) thì hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự chỉ bắt đầu khi TAND bắt đầu mở phiên toà xét xử, vì lúc này VKS mới có điều kiện thực hiện hoạt động buộc tội đối với bị cáo và đồng thời kiểm sát các hoạt động của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng... một cách công khai. Như vậy theo ý kiến này, phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự còn hẹp hơn ý kiến ban đầu, mặc dù vậy các ý kiến ấy điều cho thấy có sự hợp lý ở một góc độ nhất định. Để xác định chính xác phạm vi của hoạt động Kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đòi hỏi phải nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện trên cơ sở các qui định của Hiến pháp, pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Theo qui định của BLTTHS xác định giai đoạn quyết định việc truy tố nằm trong giai đoạn hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, khi cơ quan điều tra, kết thúc điều tra bằng bản kết luận và chuyển hồ sơ cho VKS đề nghị truy tố, VKS xét thấy có đủ dấu hiệu phạm tội thì truy tố bị can ra TAND bằng bản cáo trạng, hành vi pháp lý đó đã kết thúc giai đoạn hoạt động kiểm sát điều tra, mở ra một giai đoạn tố tụng tiếp theo, đó là giai đoạn hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự. Như vậy theo các qui định này, có thể xác định phạm vi của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự được bắt đầu từ khi Toà án có thẩm quyền nhận và thụ lý hồ sơ vụ án kèm theo quyết định truy tố của VKSND và kết thúc khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Việc xác định giới hạn như trên chỉ hiểu là tương đối, bởi lẽ hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND có thể bị chấm dứt ngay trong quá trình xét xử khi có căn cứ qui định tại Điều 105 BLTTHS "khởi tố theo yêu cầu người bị hại" khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên toà, thì Toà án phải ra quyết định đình chỉ vụ án, hoặc khi VKS ra quyết định rút quyết định truy tố, hoặc khi bản án, quyết định của TAND có kháng cáo hoặc bị kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Quan điểm về phạm vi hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật như đã nêu trên, được Điều 2 Qui chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (năm 2008) và Điều 3 Qui chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban hành năm 2007 thể hiện rõ với các nội dung: - Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu phạm tội xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra. - Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự được bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng với hồ sơ vụ án sang TAND để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị. - Theo qui định của BLTTHS (năm 2003) hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có một số vấn đề cần chú ý sau: Về thẩm quyền thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Tại Điều 170 BLTTHS qui định,TAND cấp huyện được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ một số tội phạm khác theo qui định. TAND cấp tỉnh được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới mà cấp trên lấy lên để xét xử. Như vậy, qua sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu: Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự là việc VKSND sử dụng quyền năng pháp lý do pháp luật qui định để kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, tính có căn cứ, đúng pháp luật những hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự theo quan niệm đó được thực hiện trong cả giai đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử công khai và giai đoạn sau khi xét xử xong vụ án. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS có những đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, đồng thời còn có những đặc điểm riêng, được qui định chủ yếu do bị cáo là người DTTS cụ thể như sau: 1.1.2.1. Các đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự Theo qui định của BLTTHS, quá trình tiến hành tố tụng hình sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau gồm: giai đoạn khởi tố điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, các giai đoạn này đều thực hiện mục đích xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích pháp hợp của công dân. Các giai đoạn tố tụng nêu trên tuy tương đối độc lập nhưng có mối quan hệ khăng khít với nhau tạo thành một hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau và ngược lại, giai đoạn sau là sự kiểm nghiệm kết quả khách quan đúng đắn của giai đoạn trước, mỗi giai đoạn tố tụng ấy đều có một ý nghĩa quan trọng và mang tính đặc thù riêng trong pháp luật tố tụng hình sự. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, giai đoạn xét xử được xác định là giai đoạn quan trọng nhất, nó mang tính quyết định đối với vụ án, điều này được khẳng định tại Điều 9 BLTTHS (năm 2003) với nội dung "không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật" [19]. Hoạt động tố tụng hình sự luôn có ba chức năng: gồm chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử. Chức năng tố tụng buộc tội thực chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ở Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam qui định: VKSND là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng buộc tội, có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, lọt người phạm tội và không làm oan người vô tội. Những hoạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuat-van-unicode.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan