Luận văn Công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung của tổ chức cơ sở Đoàn ở Thanh Hóa hiện nay - Thực trạng và giải pháp

Tôn giáo là một hiện tượng nảy sinh và tồn tại đã từ lâu trong lịch sử xã hội loài người và trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của đời sống xã hội. Ra đời cách đây 2000 năm, đạo Công giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Đạo Công giáo truyền bá vào Việt Nam từ thế kỷ XVI - XVII. Thanh Hóa là một trong những nơi đạo Công giáo truyền bá vào rất sớm, ở đây có Giáo phận riêng. Bên cạnh một số yếu tố tích cực nhất định, đạo Công giáo để lại nhiều dấu ấn không mấy đẹp đẽ trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ ràng và sâu sắc vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, xem đó là vấn đề hết sức nhạy cảm. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; thực hiện đoàn kết giữa những người có tôn giáo và không có tôn giáo, giữa các tôn giáo khác nhau vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong những quan điểm của mình về công tác tôn giáo, Đảng ta nhấn mạnh và đề cao quan điểm: nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, trong đó có thanh niên vùng Công giáo.

Nhờ thực hiện nhất quán quan điểm đó, tín đồ (trong đó có thanh niên Công giáo) ngày càng yên tâm, tin tưởng, tích cực thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện sống "tốt đời, đẹp đạo".

Những năm gần đây, tình hình quốc tế và khu vực có những biến động phức tạp, tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta. Một trong những biểu hiện đó là: các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tôn giáo nhằm phá vỡ khối đoàn kết toàn dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Rất dễ ràng nhận thấy là, mấy năm vừa qua và hiện nay, các hội đoàn Công giáo củng cố hoạt động cuốn hút đông đảo tín đồ tham gia, trong đó có một bộ phận không nhỏ là thanh niên. Tình hình đó thể hiện ở nhiều địa phương, ở giáo phận Thanh Hóa, tình hình có phần sâu sắc hơn. Trong khi đó, tuy công tác vận động thanh niên vùng Công giáo ở Thanh Hóa, có nhiều cố gắng nhưng chưa đổi mới kịp so với tình hình. Thanh niên Công giáo Thanh Hóa chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong bộ phận thanh niên, họ đang đứng trước những thách thức lớn. Nhiều nơi thuộc vùng Công giáo tập trung ở Thanh Hóa, tổ chức cơ sở Đoàn chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo. Một bộ phận thanh niên Công giáo mơ hồ về lý tưởng cách mạng, thờ ơ với chính trị, với hoạt động của Đoàn thanh niên; tích cực tham gia các hoạt động trong đời sống tôn giáo. Việc tìm ra những phương hướng và giải pháp đúng đắn để nâng cao chất lượng công tác vận động thanh niên Công giáo của các tổ chức cơ sở Đoàn vùng Công giáo tập trung là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay đang thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, quản lý ở Thanh Hóa, mà trực tiếp là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Với khát vọng muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào công việc chung đó của tỉnh, tôi chọn vấn đề: "Công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung của tổ chức cơ sở Đoàn ở Thanh Hóa hiện nay - thực trạng và giải pháp" làm đề tài tốt nghiệp.

 

doc108 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung của tổ chức cơ sở Đoàn ở Thanh Hóa hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo là một hiện tượng nảy sinh và tồn tại đã từ lâu trong lịch sử xã hội loài người và trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của đời sống xã hội. Ra đời cách đây 2000 năm, đạo Công giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Đạo Công giáo truyền bá vào Việt Nam từ thế kỷ XVI - XVII. Thanh Hóa là một trong những nơi đạo Công giáo truyền bá vào rất sớm, ở đây có Giáo phận riêng. Bên cạnh một số yếu tố tích cực nhất định, đạo Công giáo để lại nhiều dấu ấn không mấy đẹp đẽ trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH). Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ ràng và sâu sắc vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, xem đó là vấn đề hết sức nhạy cảm. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; thực hiện đoàn kết giữa những người có tôn giáo và không có tôn giáo, giữa các tôn giáo khác nhau vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong những quan điểm của mình về công tác tôn giáo, Đảng ta nhấn mạnh và đề cao quan điểm: nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, trong đó có thanh niên vùng Công giáo. Nhờ thực hiện nhất quán quan điểm đó, tín đồ (trong đó có thanh niên Công giáo) ngày càng yên tâm, tin tưởng, tích cực thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện sống "tốt đời, đẹp đạo". Những năm gần đây, tình hình quốc tế và khu vực có những biến động phức tạp, tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta. Một trong những biểu hiện đó là: các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tôn giáo nhằm phá vỡ khối đoàn kết toàn dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Rất dễ ràng nhận thấy là, mấy năm vừa qua và hiện nay, các hội đoàn Công giáo củng cố hoạt động cuốn hút đông đảo tín đồ tham gia, trong đó có một bộ phận không nhỏ là thanh niên. Tình hình đó thể hiện ở nhiều địa phương, ở giáo phận Thanh Hóa, tình hình có phần sâu sắc hơn. Trong khi đó, tuy công tác vận động thanh niên vùng Công giáo ở Thanh Hóa, có nhiều cố gắng nhưng chưa đổi mới kịp so với tình hình. Thanh niên Công giáo Thanh Hóa chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong bộ phận thanh niên, họ đang đứng trước những thách thức lớn. Nhiều nơi thuộc vùng Công giáo tập trung ở Thanh Hóa, tổ chức cơ sở Đoàn chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo. Một bộ phận thanh niên Công giáo mơ hồ về lý tưởng cách mạng, thờ ơ với chính trị, với hoạt động của Đoàn thanh niên; tích cực tham gia các hoạt động trong đời sống tôn giáo. Việc tìm ra những phương hướng và giải pháp đúng đắn để nâng cao chất lượng công tác vận động thanh niên Công giáo của các tổ chức cơ sở Đoàn vùng Công giáo tập trung là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay đang thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, quản lý ở Thanh Hóa, mà trực tiếp là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Với khát vọng muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào công việc chung đó của tỉnh, tôi chọn vấn đề: "Công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung của tổ chức cơ sở Đoàn ở Thanh Hóa hiện nay - thực trạng và giải pháp" làm đề tài tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Do tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo tham gia sự nghiệp cách mạng của Đảng, trong một số năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này dưới những góc độ khác nhau, như: "Vấn đề xây dựng Đảng ở một số vùng có đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở miền Bắc" đề tài khoa học cấp Bộ, Viện xây dựng Đảng - Viện Mác - Lênin - Hồ Chí Minh, thực hiện năm 1995; "Công tác đoàn kết tập hợp thanh niên tín đồ tôn giáo trong thời kỳ mới", báo cáo khoa học của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thực hiện năm 1999; "Phát triển Đảng trong các vùng đồng bào theo đạo Thiên Chúa" của tiến sĩ Ngô Hữu Thảo, Tạp chí Xây dựng Đảng số 4 năm 1999; "Công tác vận động quần chúng theo đạo Thiên Chúa ở miền Bắc nước ta hiện nay (dưới góc độ tâm lý xã hội)", Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử của Hoàng Mạnh Đoàn; "Tìm hiểu mặt chính trị của vấn đề Thiên Chúa giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành CNXHKH của Nguyễn Văn Luyện; "Vận dụng quan điểm khoa học về tôn giáo trong công tác đối với Thiên Chúa giáo hiện nay ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Văn Long... Trong các bài viết, công trình nghiên cứu đã nêu, các tác giả đã luận giải, phân tích những nội dung quan trọng về tôn giáo nói chung, đạo Công giáo nói riêng và công tác xây dựng Đảng, công tác vận động quần chúng tín đồ trong vùng đồng bào theo đạo Công giáo ở phạm vi toàn quốc hay ở một số địa phương miền Bắc nước ta. Riêng vấn đề thanh niên Công giáo và công tác vận động thanh niên vùng Công giáo chưa được đề cập cụ thể. Chưa có một công trình nào nghiên cứu về công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung của tổ chức cơ sở Đoàn ở Thanh Hóa hiện nay. Luận văn này là một nỗ lực trong việc nghiên cứu mảng vấn đề đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích: trên cơ sở làm rõ thực trạng hoạt động của tổ chức cơ sở Đoàn trong công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung ở Thanh Hóa và những vấn đề đặt ra hiện nay, luận văn góp phần làm rõ nội dung và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở Đoàn trong công tác vận động thanh niên vùng Công giáo nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của họ trong quá trình đổi mới đất nước. 3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Đánh giá đúng thực trạng thanh niên Công giáo, công tác vận động thanh niên Công giáo của tổ chức cơ sở Đoàn trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Làm rõ vị trí của tổ chức cơ sở Đoàn trong công tác vận động thanh niên nói chung, thanh niên vùng Công giáo tập trung nói riêng. - Xác định rõ nội dung công tác vận động thanh niên Công giáo của tổ chức cơ sở Đoàn và một số giải pháp thực hiện. 3.3. Phạm vi nghiên cứu: Công tác vận động thanh niên Công giáo có phạm vi rất rộng. Trong đề tài này, luận văn chủ yếu tập trung làm sáng rõ nội dung công tác giáo dục lý tưởng XHCN, tổ chức phong trào hành động cách mạng qua việc thu hút thanh niên Công giáo vào hai phong trào lớn "Thanh niên lập nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước" của tổ chức cơ sở Đoàn vùng Công giáo tập trung ở Thanh Hóa hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1.Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu, thực hiện trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về công tác vận động tín đồ tôn giáo tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; những chủ trương của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về công tác vận động thanh niên nói chung, thanh niên Công giáo nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng triệt để những quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt chú ý phương pháp kết hợp lịch sử và lôgíc, đối chiếu so sánh qua thực tế điều tra, khảo sát địa bàn vùng Công giáo tập trung ở Thanh Hóa. 5. Đóng góp mới của luận văn Luận văn góp phần đánh giá thực trạng hoạt động của tổ chức cơ sở Đoàn trong công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung ở Thanh Hóa. Trên cơ sở đó, đề xuất một số nội dung, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở Đoàn trong việc nâng cao chất lượng công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung ở Thanh Hóa. 6. ý nghĩa thực tiễn của đề tài - Luận văn góp phần giúp cho các tổ chức cơ sở Đoàn ở vùng Công giáo làm tốt công tác vận động thanh niên Công giáo tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy chuyên đề về công tác vận động quần chúng ở các trường Chính trị tỉnh, huyện. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 Thanh niên Công giáo và thực trạng công tác vận động thanh niên vùng Công giáo tập trung của tổ chức cơ sở đoàn ở Thanh Hóa hiện nay 1.1. Đạo Công giáo ở Thanh Hóa và đặc điểm vùng Công giáo tập trung ở địa phương Thanh Hóa là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, nằm ở 19018’ vĩ độ Bắc và 104025’ - 106005’ kinh độ Đông, chỗ rộng nhất theo chiều Bắc - Nam là 95km và rộng nhất theo chiều Đông - Tây là 189 km; phía Bắc giáp các tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn của Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào; phía Nam giáp Nghệ An; phía Đông là biển Đông. Thanh Hóa cách thủ đô Hà Nội 153 km về phía Nam, có 98 km đường quốc lộ 1A đi qua. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 11.168 km2, có 70% đất đai là núi đồi và rừng, có trên 500 km địa giới tỉnh và quốc gia, khoảng 102 km bờ biển. Toàn tỉnh được chia thành ba vùng lớn là: Vùng đồng bằng 1.864,23 km2; vùng ven biển 1.141,89 km2; vùng trung du và miền núi 7.893,41 km2; còn lại là đảo, sông và hồ (268,47 km2). Hệ thống sông ở Thanh Hóa theo bướng Tây-Bắc - Đông-Nam và Đông-Tây đều đổ ra biển Đông. Biển Thanh Hóa thuộc vịnh Bắc Bộ, phía ngoài cách bờ biển khoảng 290 km có đảo Hải Nam (của Trung Quốc) diện tích thềm lục địa 18.000 km2, biển nông và bằng phẳng. Có thể nói Thanh Hóa như là một hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam với đủ các vùng rừng núi, trung du, đồng bằng và thềm lục địa, có khả năng xây dựng và phát triển tương đối toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội... Thanh Hóa là một tỉnh dân số đông, (tính đến tháng 1 năm 2000 là 3 triệu 562 nghìn 357 người), đứng thứ hai so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Toàn tỉnh Thanh Hóa có 27 huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; trong đó có 11 huyện miền núi, 5 huyện miền biển, 8 huyện đồng bằng, 1 thành phố và 2 thị xã; có 630 đơn vị xã, phường, thị trấn; có 48 xã ven biển, 195 xã, thị trấn miền núi (có 88 xã vùng cao, 13 xã có chung đường biên giới với nước bạn Lào) [16, tr. 6-7]. Thanh Hóa là một trong những cái nôi của nền văn hóa dân tộc với: Văn hóa Núi Đọ (Sơ kỳ thời đại đá cũ); Văn hóa Sơn Vi (Hậu kỳ thời đại đá cũ); Văn hóa Hòa Bình; Văn hóa Bắc Sơn; Văn hóa Đa Bút (thời đại Đá mới); Văn hóa Hoa Lộc (thời Đồng Đá); Văn hóa Đông Sơn và Bộ Cửu Chân thời Hùng Vương. Nhân dân Thanh Hóa cũng đã đóng góp nhiều sức người, sức của vào quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tên tuổi của Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân... luôn là niềm tự hào của nhân dân Thanh Hóa, của dân tộc Việt Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Thanh Hóa cũng đã đóng góp những công sức không nhỏ, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Tính từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 10-1995, Thanh Hóa có 391.657 người đi bộ đội, 41.863 người đi Thanh niên xung phong. Toàn tỉnh có 56.559 liệt sĩ, 32.146 thương binh, 25 đơn vị và 71 cá nhân được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có 1.125 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 2 đơn vị và 16 cá nhân được tuyên dương anh hùng lao động [16, tr.102]. Trong dịp vào thăm Thanh Hóa lần thứ hai (ngày 13-6-1957) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi: "Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó" [38, tr. 400]. Ghi nhận sự đóng góp to lớn và xuất sắc của Đảng bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang Thanh Hóa đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã trao tặng "Huân chương Sao vàng" cho cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang toàn tỉnh. Tuy nhiên, là tỉnh có bờ biển dài, rộng và bằng phẳng, có những cửa lạch lớn thuận lợi cho giao thông đường biển, Thanh Hóa là tỉnh ở miền Bắc nước ta đạo Công giáo truyền bá vào rất sớm. Tháng 6 năm 1549, Thánh Phanxicô cùng với hai cha đồng bạn và ông Phaolô Hashiro (người Nhật Bản) từ Mã Lai lên tàu sang Nhật Bản. Nhiều tác giả cho rằng, trên đường đi đến Nhật Bản, Thánh Phanxicô đã ghé vào cửa Bạng (Tĩnh Gia, Thanh Hóa) để tránh bão. Ngày nay ở cửa Bạng vẫn lưu truyền thuyết về một loại cua biển trên mu in hình Thánh giá trắng do Thánh Phanxicô chúc lành cho con cua và dấu Thánh giá đã ghi lại trên mu con cua. Dân chúng trên cửa Bạng quen gọi thứ cua đó là "cua Thánh Phanxicô". Ngày 19-3-1627, từ Ma Cao, hai Giáo sĩ Derhodes (tức Đắc Lộ) và Redro Marques đi qua vùng Hải Nam gặp bão, tàu dạt vào cửa Bạng. Để ghi ơn phù hộ của Thánh cả và để hiến dâng cho công cuộc truyền giáo được bắt đầu, trong chính ngày lễ Thánh nhân, giáo sĩ Đắc Lộ đặt cửa biển đó là cửa Thánh Giuse và nhận là người bổn mạng sứ Bắc. Tới đây, hai giáo sĩ bắt đầu cho việc truyền giáo ở miền Bắc. Hai người dân trong nhóm dân chài ở cửa Bạng đến xin học đạo và chịu phép rửa tội với cả gia đình. Một người được đặt tên Thánh Giuse, một người mang tên Thánh Inhaxu. Từ đó, giáo sĩ Đắc Lộ tiếp tục sứ vụ đã bắt đầu. Trong ít ngày đã có 32 người dân ở cửa Bạng và các vùng lân cận chịu phép rửa tội. Trong thời gian này, hai giáo sĩ đã chọn ngày thứ 6 Tuần Thánh làm ngày suy tôn Thánh giá, tổ chức lễ dựng Thánh giá trên núi, đánh dấu điểm bắt đầu cuộc truyền bá của Giáo hội xứ Bắc [18, tr. 124-125]. Đến tháng 2-1896, thị xã Thanh Hóa lúc bấy giờ (nay là thành phố Thanh Hóa) chưa có nhà xứ, chỉ có một nguyện đường nhỏ với phòng lợp tranh thuộc họ Thí Trường (Trường Thi) và nhà nuôi cô nhi. Thời gian này, Đức cha Thành (Giám mục phó Giáo phận Hà Nội), tới Thanh Hóa, ngỏ ý muốn lập Tòa giám mục cho Giáo phận mới sẽ được thiết lập. Nhưng lúc ấy, thị xã Thanh Hóa giáo dân quá ít, ở rải rác xa nhau. Do đó, ông đã thay đổi ý định và chỉ lập ở đây một giáo xứ quy tụ các họ đạo Thí Trường, Đức Thọ, Yên Vực (phía nam cầu Hàm Rồng) Đại Tiền, Kẻ Son, Phù Chẩn, Bình Đơn và Giàng, cách nhau từ 1-5 km. Tất cả 8 họ đạo với 350 tín hữu gọi là Giáo xứ Thí Trường. Linh mục Huyền được cử là chính xứ đầu tiên. Cuối năm 1896, Đức cha Thành từ Thanh Hóa trở ra Phát Diệm ngỏ lời với cha Trần Lục muốn đặt Tòa giám mục ở đây. Cha Trần Lục vui vẻ đồng ý ngay. Sau khi báo cáo với Tòa Thánh Roma, ngày 15 tháng 4 năm 1901, Tòa Thánh Roma đã ra chiếu thư về việc thiết lập Giáo phận mới, bao gồm tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa và Châu Lào, mang tên Giáo phận xứ Thanh (cũng gọi là Bắc kỳ Duyên hải). Từ năm 1924 cải tên là Phát Diệm - nơi đặt Tòa giám mục. Đức cha Alexandre Marcou Thành làm đại diện Tông tòa tiên khởi [18, tr. 120-121]. Phát Diệm phát triển nhanh và tăng dân số, vấn đề đặt ra là phải chia Giáo phận. ở Ba làng đã có trường Bảng rộng lớn, khi thành lập Giáo phận mới sẽ kiêm cả Tiểu chủng viện và trường Triết học. Tòa giám mục và Sở nhà chung được quyết định đặt ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1930, công việc kiến thiết nhà thờ tỉnh được bắt đầu. Ngày 21-6-1932, sau thời gian chuẩn bị, Tòa thánh ban chiếu thư thiết lập Giáo phận Thanh Hóa - gồm tỉnh Thanh Hóa (13 phủ, huyện) và tỉnh Sầm Nưa (6 châu thuộc Lào) với diện tích khoảng 20.000 km2, tổng dân số 1.400.000 người Việt, 80.000 người Lào. Đức cha De Cooman Hành làm đại diện Tông tòa đầu tiên, cai quản Giáo phận mới. Tòa giám mục tại thị xã Thanh Hóa với hàng giáo sĩ 36 thừa sai Pháp, cha Poncet Thảo được đặt làm cha chính Giáo phận. Thừa sai Augustin Canilhac Căn giữ chức bề trên miền Châu Lào. Thừa sai Alfred Barbier Cẩn thư ký Tòa giám mục. Thừa sai Joseph Réminiac Nhạc quản lý Giáo phận. Trường Ba làng từ 1927 trở thành Tiểu chủng viện thánh Giuse dưới quyền cha Giám đốc Lury Lưu và các cha giáo sư Pon Cet Thảo, Phạm Tần, Nguyễn Định Tường. Đại chủng sinh gửi ở Hà Nội. Ngoài hai dòng nữ tu đã có từ năm 1926 và 1929, ngày 23-11-1935, dòng Mến thánh giá Thanh Hóa được thành lập trên cơ sở tách từ Phát Diệm. Lớp khấn dòng đầu tiên được cử hành ngày 2-2-1938. Ngày nay, Giáo phận Thanh Hóa chỉ còn riêng ở địa bàn tỉnh Thanh Hóa [18, tr. 129-131]. Giáo phận Thanh Hóa từ khi được thành lập, tổ chức Giáo hội hoạt động hết sức sôi động để lại nhiều dấu ấn sâu sắc. Năm 1939, chỉ mấy năm sau khi thành lập, Địa phận Thanh Hóa đã có: Hàng giáo sĩ gồm 33 thừa sai Pháp, 53 linh mục triều, 22 đại chủng sinh (học ở Hà Nội), 183 tiểu chủng sinh và trường thử. Hàng tu sĩ có 9 cha dòng Phan Sinh điều khiển 150 đệ tử sinh; 11 (trong đó có 7 người Pháp) đan sĩ Cát Minh với 3 tập sinh; 17 nữ tu Đức Bà truyền giáo (trong đó có 12 người Pháp); 5 tập sinh điều hành một trường học có lưu xá; 48 nữ tu Mến thánh giá; 14 tập sinh, sinh hoạt trong 7 tu viện. Số giáo dân là 58.628 người và 7.442 dự tòng trên tổng dân số là 1.500.000 người (chiếm 4,3%), chia làm 5 hạt, 16 giáo xứ, 494 họ đạo, 227 nhà thờ và nhà nguyện, 5 đất thánh [18, tr. 139]. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 và toàn quốc kháng chiến 19-2-1946, chủng viện Ba làng giải tán. Ngày 24-3-1954, Đức cha Hành đặt cha Pherô Phạm Tần (32 tuổi) làm Tổng quản Giáo phận. Từ sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Cũng như các địa phương khác, ở Thanh Hóa "... tại một số vùng dân cư theo đạo Thiên Chúa, trước khi rút khỏi miền Bắc, bọn địch đã cài cắm gián điệp ở lại nhằm tạo cơ sở phá hoại lâu dài. Dựa vào điều 140 của Hiệp định Giơnevơ, bọn phản động đã tung ra luận điệu "miền Bắc sẽ chết đói", "miền Bắc không được tự do tín ngưỡng", "Chúa đã vào Nam", "Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc"... Bằng những thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp và sự cưỡng ép tàn bạo của địch, hàng ngàn giáo dân đã lìa bỏ quê hương di cư vào Nam. ở nhiều nơi, bọn phản động lợi dụng tôn giáo đã tập hợp bọn côn đồ chống đối, vu cáo chính quyền cách mạng" [16, tr. 13-14]. Hoạt động của bọn phản động cấu kết với các phần tử đội lốt tôn giáo nhằm chống phá chính quyền cách mạng, lôi kéo giáo dân. Tại Thanh Hóa, hoạt động đó được biểu hiện rõ nhất, phức tạp nhất là ở Nga Sơn và Tĩnh Gia. Trước năm 1954, Giáo hội Công giáo Nga Sơn liên kết với đế quốc Pháp và bọn tay sai, thành lập nhiều tổ chức chính trị phản động chống phá cách mạng nhằm đưa Nga Sơn thành trung tâm tôn giáo của tỉnh Thanh Hóa tự trị. Chúng đã biến hầu hết các nhà thờ thành trung tâm đào tạo, huấn luyện phản động tay sai. Thánh đường trở thành "đồn bốt giặc". Nhiều giáo sĩ không chỉ làm chức năng truyền đạo, mà còn là những tên mật vụ chỉ điểm cho kẻ thù vây bắt cán bộ, đảng viên. Linh mục Lê Thành Thục đã cùng thực dân Pháp trực tiếp đem quân đi càn quét vùng giáo Nga Điền, Nga Phú, Nga Thái, Nga Thanh. Nhà thờ Tam tổng đã trở thành một đồn địch thực sự. Địch bố trí các hỏa lực trên tháp chuông, các lỗ châu mai xung quanh nhà thờ. Năm 1954, Lê Thành Thục tiếp tục tuyên truyền thúc ép giáo dân di cư vào Nam, chống phá quyết liệt phong trào xây dựng hợp tác hóa bằng cách đe dọa giáo dân: nếu không ra khỏi hợp tác xã sẽ bị "rút phép thông công". ở Tĩnh Gia, bọn phản động đã tập trung bọn côn đồ âm mưu gây bạo loạn, cưỡng ép 2.000 giáo dân từ Thượng Chiểu về Ba Làng chống lại chính quyền. ở các huyện Quảng Xương, Nông Cống, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Thành phố Thanh Hóa... bọn phản động đã len lỏi vào nhà thờ, vào khu vực tập trung dân cư theo đạo Công giáo để tuyên truyền, kích động và tổ chức di cư... Đêm ngày 1, rạng sáng ngày 2-1-1955, lợi dụng chính quyền đuổi bắt 11 tên phản động dùng thuyền đánh cá liên lạc với tàu Pháp, bọn phản động kích động hơn 1.000 giáo dân vào đâm chém và bắt đi 6 cán bộ, làm bị thương 40 người khác. Chính quyền đã sử dụng lực lượng trấn áp bọn phản động trong nhà thờ Ba Làng. 400 tên côn đồ, trong đó có những kẻ cầm đầu phải đầu hàng. Trước âm mưu của bọn phản động, mặc dù các cấp ủy Đảng và Chính quyền đã tích cực tuyên truyền giải thích cho đồng bào giáo dân thấy được âm mưu của địch, vận động hơn 4.000 giáo dân tập trung tại Phát Diệm để dư cư vào Nam quay về quê hương làm ăn sinh sống; song, theo làn sóng di cư, toàn tỉnh Thanh Hóa có khoảng 18.000 giáo dân cùng 62 linh mục, các đại chủng sinh và bốn dòng tu Phan Sinh, Cát Minh, Đức Bà truyền giáo và Mến thánh giá di cư vào Nam [16, tr. 89-90]. Từ khi thành lập 1932, địa phận Thanh Hóa chỉ là địa phận đại diện Tông tòa. Từ 24-11-1960, với việc thiết lập hệ thống phẩm trật của Giáo hội Việt Nam, địa phận Thanh Hóa trở thành Giáo phận chính tòa. Sự ảnh hưởng của Giáo hội tới đồng bào giáo dân càng trở nên sâu sắc. Dưới chế độ XHCN ở miền Bắc, với chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo, đa số chức sắc Công giáo đã hòa mình với dân tộc, cùng nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Bên cạnh đó, một số giáo sĩ sẵn có thái độ thù địch, ngấm ngầm chống phá cách mạng, tỏ thái độ bất hợp tác với Cộng sản. Điển hình ở Thanh Hóa thời kỳ này, trong vùng đồng bào Công giáo ở Nga Sơn, dưới sự lãnh đạo của một tổ chức phản động lấy tên là "Đảng cách mạng quốc gia Việt Nam" do Lường Mạnh Huân làm thủ lĩnh, chúng đã thành lập ra "Hội Tràng hạt Mân côi". Đây là một tổ chức phản động của bọn lợi dụng Công giáo với mưu đồ củng cố lực lượng, củng cố đức tin, đón chờ Bắc tiến của Mỹ - Ngụy để phối hợp lật đổ Chính quyền cách mạng. "Hội Tràng hạt Mân côi" đã phát triển nhanh ở 4 xã Nga Liên, Nga Thái, Nga Phú, Nga Điền (thuộc huyện Nga Sơn) và ở một số vùng Công giáo thuộc huyện Hà Trung, Yên Định, Tĩnh Gia, Quảng Xương... Trước ý đồ và hoạt động của chúng, tháng 6-1962, Công an Thanh Hóa đã lập chuyên án và phá án thắng lợi. Tổ chức "Hội Tràng hạt Mân côi" phản động bị tan rã [16, tr. 94-95]. Đất nước bước vào thời kỳ cách mạng mới, thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Giáo hội Thanh Hóa đã có những chuyển biến đáng khích lệ. Nhiều giáo sĩ, chức sắc Công giáo tham gia vào các tổ chức xã hội (như đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, đại biểu Quốc hội), tích cực vận động quần chúng giáo dân xây dựng cuộc sống mới, xây dựng chính quyền cơ sở, thực hiện sống "tốt đời, đẹp đạo". Bên cạnh đó, hoạt động của Giáo hội Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của Vatican đã và đang có những nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động đáng quan tâm. Hướng chiến lược của Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay do Vatican chỉ đạo là không nên manh động, đối đầu với Nhà nước mà phải tập trung vào các hoạt động để phát triển thế lực của Giáo hội, làm cho Giáo hội có đủ lực lượng để làm đối trọng với Nhà nước ta. Như vậy, ý đồ của Vatican là củng cố thế và lực cho Giáo hội Công giáo Việt Nam đủ mạnh để có thể sử dụng Giáo hội như một công cụ, phương tiện chống phá ta lâu dài; dùng Giáo hội Công giáo Việt Nam để làm xói mòn cơ sở quần chúng và các cơ sở của ta trong các vùng giáo, biến các địa phận Công giáo thành lãnh địa riêng [32, tr. 61]. Cùng với Vatican, các thế lực phản động quốc tế đứng đầu là Mỹ coi việc lợi dụng Giáo hội Công giáo nước ta như một công cụ để thực hiện chiến lược "Diễn biến hòa bình" ở Việt Nam. Theo Giáo sư, tiến sĩ Chu Nguyên Chương, Việt kiều ở Mỹ: "Giáo hoàng John Paul II sẵn sàng cho Mỹ mượn đạo quân thứ 5 hiện đang nằm vùng ngay trong nước Việt Nam. Đạo quân gồm 5 triệu người Kytô giáo có tổ chức chặt chẽ, hết sức cuồng tín và sẵn sàng nhận lệnh của Vatican bất cứ lúc nào" [14, tr. 4]. Biểu hiện rõ nét ở Thanh Hóa, hoạt động của Giáo hội là tăng cường, củng cố cơ sở vật chất thật vững, dùng nhiều biện pháp hấp dẫn, tâm lý phù hợp với lứa tuổi nhằm phát triển tín đồ, gây thanh thế Giáo hội. ở tất cả các xứ, Giáo hội dùng giáo quyền đưa tín đồ vào hội đoàn, củng cố hội đoàn cũ, hình thành các hội đoàn mới, tăng cường các hình thức hoạt động nhằm hợp thức các tổ chức mà Chính quyền không cho phép. Các Linh mục được thuyên chuyển để hoạt động phù hợp với từng giáo xứ, đưa các Linh mục trẻ có năng lực đến các vùng "khó khăn". Tăng cường đào tạo Linh mục. Tăng cường "rao giảng lời chúa". Tổ chức các lớp học kinh bổn cho mọi lứa tuổi, đặc biệt chú trọng tới lớp trẻ, đưa nữ tu xuống dạy kinh bổn ở các giáo xứ. Sau khi học là tổ chức các kỳ thi, sát hạch dưới nhiều hình thức khác nhau, có đánh giá và khen thưởng từng đối tượng. Một số chức sắc, chức việc có tư tưởng cơ hội, vọng ngoại, vâng phục, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là việc một số Linh mục ở Ba Làng (Tĩnh Gia) Sầm Sơn, Hà Trung... có những việc làm cố ý không thông qua chính quyền. Có nơi, chức sắc, chức việc ngăn cản tín đồ tham gia các hoạt động xã hội, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho các tổ chức quần chúng ở địa phương gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt, tổ chức hoạt động. Gần đây, ở các xứ đạo tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, tu sửa, cơi nới Tòa giám mục, tu viện và xây dựng lại nhà thờ ở những nơi đã bị hư hỏng, đòi lại đất trước đây đã bàn giao cho Nhà nước và các tổ chức xã hội hiện nay đang sử dụng. Thời gian qua, địa phận Thanh Hóa đã làm 15 nhà thờ, có nhà thờ đầu tư trên 3 tỷ đồng [4, tr. 5]. Giáo hội tìm mọi cách khôi phục mở mang cơ sở tôn giáo ở những nơi "khô", "nhạt đạo", vùng dân tộc ít người, khôi phục và tổ chức lại cấp hành chính đạo (như tách họ đạo, tổ chức hoạt động ở địa phận giáo hạt). Tăng cường, củng cố, trẻ hóa ban hành giáo cả số lượng và chất lượng, có nơi lên 9 người, chủ yếu là tín đồ hoạt động tôn giáo tích cực; có nơi tranh thủ đảng viên gốc giáo để b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN.doc
  • docMUCLUC1.doc
Tài liệu liên quan