Luận văn Huy động và sử dụng vốn xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum

Vốn là một phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị trường, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển, vốn vừa là phương thức, vừa là điều kiện để thực hiện mục tiêu kinh tế-xã hội; vốn tạo ra khả năng huy động, sử dụng và khai thác tốt mọi nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế góp phần xoá đói giảm nghèo (XĐGN), thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Kon Tum là một tỉnh miền núi, nền kinh tế cơ bản vẫn là nông nghiệp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém và thiếu đồng bộ. Trình độ dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế; đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) vùng sâu, vùng xa gặp nhiều thiếu thốn. Vì vậy, vốn trở thành nhân tố có tính cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài để đầu tư phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu XĐGN bền vững, tạo ra việc làm, nâng cao mức sống cho đồng bào DTTS.

Những năm qua Đảng và Nhà nước đã chú trọng đầu tư, hỗ trợ vốn XĐGN thông qua các nghị quyết, chương trình như: Quyết định 656/TTg của Thủ tướng Chính phủ: về phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên; Chương trình 134, 135, 139 , là nhằm mục đích phát triển kinh tế-xã hội, XĐGN. Thực hiện các nghị quyết của Chính phủ, Kon Tum đã có những chủ trương, biện pháp sát thực, tích cực huy động và hỗ trợ vốn đầu tư để XĐGN, nhờ đó đời sống của đồng bào DTTS có nhiều chuyển biến tích cực. Song, nguồn vốn đã huy động được rất hạn chế so với nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS, nhưng đầu tư dàn trải, manh mún, hiệu quả chưa cao. Đồng bào DTTS vùng sâu, vùng xa cái đói, cái nghèo vẫn đeo đẳng mãi ở một bộ phận không nhỏ, tỷ lệ hộ nghèo cao 38,63% [13, tr.107]. Vấn đề đặt ra, cần xây dựng những giải pháp đúng đắn để huy động và sử dụng vốn từ các chương trình XĐGN phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội mà Đại hội X của Đảng đề ra: đầu tư mạnh hơn cho các chương trình XĐGN nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào DTSS [16, tr.90], là đòi hỏi bức thiết cả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh-quốc phòng. Thực hiện mục tiêu trên, chính là ước nguyện của Bác Hồ, Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [29, tr.161].

 

doc129 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 843 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Huy động và sử dụng vốn xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo cho ®ång bµo d©n téc thiÓu sè tØnh kon tum HÀ NỘI- 2009 MỤC LỤC Trang Më ®Çu 1 Ch­¬ng 1: Mét sè vÊn ®Ò lý luËn, thùc tiÔn vÒ huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo cho ®ång bµo d©n téc thiÓu sè 4 1.1. §Æc ®iÓm nghÌo ®ãi cña ®ång bµo d©n téc thiÓu sè vµ yªu cÇu vÒ vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo 4 1.2. Vèn - vÊn ®Ò huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo cho ®ång bµo d©n téc thiÓu sè 17 Ch­¬ng 2: Thùc tr¹ng huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo ë tØnh Kon Tum hiÖn nay 43 2.1. §Æc ®iÓm vÒ ®iÒu kiÖn tù nhiªn, kinh tÕ - x· héi ë tØnh Kon Tum t¸c ®éng ®Õn huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo 43 2.2. Thùc tr¹ng huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo cho ®ång bµo d©n téc thiÓu sè ë tØnh Kon Tum hiÖn nay 51 Ch­¬ng 3: Ph­¬ng h­íng, gi¶i ph¸p n©ng cao hiÖu qu¶ huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo ë tØnh Kon Tum 89 3.1. Ph­¬ng h­íng c¬ b¶n huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo bÒn v÷ng ë tØnh Kon Tum giai ®o¹n (2010-2015) vµ cã tÝnh ®Õn 2020 89 3.2. Gi¶i ph¸p n©ng cao hiÖu qu¶ huy ®éng vµ sö dông vèn xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo 94 KÕt luËn 118 Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 120 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BHYT : Bảo hiểm y tế BOT : Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao BT : Xây dựng-chuyển giao CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ESCAP : Hội đồng kinh tế- Xã hội Châu Á FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài DTTS : Dân tộc thiểu số ĐBKK : Đặc biệt khó khăn H : Hàng hóa HĐND : Hội đồng nhân dân HDI : Chỉ số phát triển con người HSSV : Học sinh sinh viên ICOR : Hệ số gia tăng tư bản đầu ra ODA : Vốn viện trợ phát triển chính thức KCB : Khám chữa bệnh KHCN : Khoa học công nghệ NGO : Vốn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ NH CSXH : Ngân hàng chính sách xã hội SLĐ : Sức lao động SX : Sản xuất T : Tiền TBCN : Tư bản chủ nghĩa TLSX : Tư liệu sản xuất TTCX : Trung tâm cụm xã UBND : Uỷ ban nhân dân UTĐT : Uỷ thác đầu tư WTO : Tổ chức Thương mại thế giới WB : Ngân hàng thế giới XĐGN : Xoá đói giảm nghèo XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 1.1: Quy định chuẩn nghèo của Việt Nam cho từng giai đoạn 12 Bảng 1.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư từ năm 1988-2005 (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) 35 Bảng 2.1: Vốn các dự án khuyến nông, hỗ trợ phát triển sản xuất giai đoạn 2006-2010 52 Bảng 2.2: Kết quả sử dụng vốn hỗ trợ phát triển sản xuất (2006-2008) 53 Bảng 2.3: Cơ cấu các nguồn vốn và sử dụng vốn từ năm 2003 đến 2007 54 Bảng 2.4: Kết quả vốn vay của các hộ từ NH CSXH giai đoạn (2003-2007) 57 Bảng 2.5: Các nguồn vốn của Quỹ KCB cho người nghèo DTTS 59 Bảng 2.6: Tổng số vốn giải ngân từ đầu dự án đến hết năm 2007 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vốn là một phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị trường, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển, vốn vừa là phương thức, vừa là điều kiện để thực hiện mục tiêu kinh tế-xã hội; vốn tạo ra khả năng huy động, sử dụng và khai thác tốt mọi nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế góp phần xoá đói giảm nghèo (XĐGN), thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Kon Tum là một tỉnh miền núi, nền kinh tế cơ bản vẫn là nông nghiệp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém và thiếu đồng bộ. Trình độ dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế; đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) vùng sâu, vùng xa gặp nhiều thiếu thốn. Vì vậy, vốn trở thành nhân tố có tính cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài để đầu tư phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu XĐGN bền vững, tạo ra việc làm, nâng cao mức sống cho đồng bào DTTS. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã chú trọng đầu tư, hỗ trợ vốn XĐGN thông qua các nghị quyết, chương trình như: Quyết định 656/TTg của Thủ tướng Chính phủ: về phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên; Chương trình 134, 135, 139…, là nhằm mục đích phát triển kinh tế-xã hội, XĐGN. Thực hiện các nghị quyết của Chính phủ, Kon Tum đã có những chủ trương, biện pháp sát thực, tích cực huy động và hỗ trợ vốn đầu tư để XĐGN, nhờ đó đời sống của đồng bào DTTS có nhiều chuyển biến tích cực. Song, nguồn vốn đã huy động được rất hạn chế so với nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS, nhưng đầu tư dàn trải, manh mún, hiệu quả chưa cao. Đồng bào DTTS vùng sâu, vùng xa cái đói, cái nghèo vẫn đeo đẳng mãi ở một bộ phận không nhỏ, tỷ lệ hộ nghèo cao 38,63% [13, tr.107]. Vấn đề đặt ra, cần xây dựng những giải pháp đúng đắn để huy động và sử dụng vốn từ các chương trình XĐGN phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội mà Đại hội X của Đảng đề ra: đầu tư mạnh hơn cho các chương trình XĐGN nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào DTSS [16, tr.90], là đòi hỏi bức thiết cả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh-quốc phòng. Thực hiện mục tiêu trên, chính là ước nguyện của Bác Hồ, Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [29, tr.161]. Do vậy, nghiên cứu “huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS tỉnh Kon Tum” được chọn làm luận văn Thạc sỹ kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay có nhiều tác giả đã nghiên cứu về vốn đầu tư, về sử dụng vốn XĐGN. Trong đó có một số công trình khoa học tiêu biểu như: - Nguyễn Văn Lai, “Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam”, Luận án Phó tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996 - Nguyễn Đẩu, “Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế Thành phố Đà Nẵng- Thực trạng và giải pháp”, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999 - Đinh Văn Phượng (2000), “Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núi phía bắc nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Văn Thông (2008), “Đầu tư vốn của nhà nước để phát triển kinh tế xã hội ở các huyện vùng núi cao tỉnh Nghệ An”, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã tìm ra các giải pháp sử dụng vốn, đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, giải pháp huy động vốn sản xuất, kinh doanh. Tỉnh Kon Tum cho đến nay, vấn đề huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS chưa có tác giả nào nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Mục đích: nghiên cứu đề xuất phương hướng và các nhóm giải pháp huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS ở tỉnh Kon Tum trong thời gian tới. - Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về vốn, phương thức huy đồng và sử dụng vốn. Đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn XĐGN cho đồng bào DTTS tỉnh Kon Tum trong thời gian qua. 4. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu của đề tài - Luận văn tập trung nghiên cứu việc huy động và sử dụng vốn (tính giá trị bằng tiền) từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo và vốn từ một số chương trình lồng ghép XĐGN cho đồng bào DTTS ở tỉnh Kon Tum. - Thời gian nghiên cứu chỉ tập trung vào giai đoạn 1997 – 2008. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của Đảng và Chính sách của Nhà nước, các văn bản, Nghị quyết của tỉnh Kon Tum về huy động và sử dụng vốn XĐGN. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: điều tra, khảo sát thực tiễn, thống kê, phân tích, tổng hợp, kế thừa các công trình khoa học đã có về lý thuyết; lượng hóa một số chỉ tiêu đánh giá. 6. Ý nghĩa của luận văn - Phân tích vai trò của vốn tiền tệ, mối quan hệ huy động và sử dụng vốn XĐGN đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Trình bày và phân tích một số chỉ tiêu đánh giá cụ thể về huy động và sử dụng vốn XĐGN ở tỉnh Kon Tum. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu chính sách huy động và sử dụng các nguồn vốn XĐGN đối với đồng bào dân tộc và miền núi nói chung. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.1. ĐẶC ĐIỂM NGHÈO ĐÓI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ YÊU CẦU VỀ VỐN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 1.1.1. Một số khái niệm về nghèo đói Vấn đề nghèo đói đang diễn ra trên khắp các châu lục với những mức độ khác nhau, nó trở thành thách thức lớn đối với sự phát triển của nhân loại. Điều nghịch lý hiện nay, chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại, văn minh với trình độ phát triển kinh tế vượt bậc và ứng dụng những phát minh thần kỳ của khoa học công nghệ (KHCN) vào đời sống, nhưng điều đó không tránh khỏi một thực tế là có một bộ phận lớn dân cư trên thế giới đang sống dưới mức nghèo khổ. Có thể nói nghèo đói là một hiện tượng xã hội mang tính toàn cầu, nó tồn tại và không có biên giới riêng cho mỗi nước. Cuộc chiến chống nghèo đói là cuộc chiến trên phạm vi toàn cầu, được Liên hợp quốc xác định là một trong những mục tiêu phát triển cơ bản của thiên niên kỷ mới. Nghèo đói là một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian-thời gian và tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, vùng miền mà có những định nghĩa khác nhau. Đến nay, các nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau, như tại Hội nghị bàn về XĐGN ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc - Thái Lan vào tháng 9 năm 1993, các quốc gia đã thống nhất cho rằng: “nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội và phong tục tập quán của địa phương” [60]. Khái niệm trên được coi là một định nghĩa chung nhất về nghèo đói, vì đã đưa ra nội hàm cơ bản của nó “không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người”, nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái tối cần thiết để duy trì sự tồn tại của con người và phản ánh tình trạng nghèo khổ cùng cực, là bản thể con người thiếu ăn không đủ no, không đủ năng lượng để duy trì tái sản xuất sức lao động (SĐL). Tuy nhiên, định nghĩa chỉ nêu lên định tính của nghèo đói, còn bỏ ngỏ về mặt lượng, vì còn phải xét đến “trình độ phát triển kinh tế-xã hội, phong tục tập quán của địa phương”. Tháng 3 năm 1995, tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen Đan Mạch, nêu ra: “người nghèo là tất cả những ai có thu nhập thấp hơn dưới 1USD mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”[61]. Khác với định nghĩa do ESCAP đưa ra, định nghĩa này đã phản ánh được tiêu chí nghèo đói về mặt lượng “thu nhập thấp hơn dưới 1USD mỗi ngày cho mỗi người”. Khái quát ở tầm vĩ mô, Ngân hàng Thế giới đưa ra: “nghèo đói là sự thiếu hụt không thể chấp nhận được trong phúc lợi xã hội của con người, bao gồm cả khía cạnh sinh lý học và xã hội học”[60]. Thiếu hụt về sinh lý học là không đáp ứng nhu cầu vật chất và nhà ở; còn thiếu hụt về sinh học như dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục; thiếu hụt về mặt xã hội liên quan đến những khái niệm bình đẳng, rủi ro và được tự chủ, tôn trọng trong xã hội. Ngày nay, có nhiều quan điểm mới về nghèo không chỉ dựa vào thu nhập hay chi tiêu mà còn quan tâm đến cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Chuyên gia hàng đầu của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) định nghĩa: nghèo là những người không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu; có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư; thiếu cơ hội tham gia vào phát triển của cộng đồng. Để đánh giá mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. - Nghèo tuyệt đối: là người có thu nhập không đủ ăn; họ đói, thiếu ăn thường xuyên, sống một cuộc sống cùng cực, chạy ăn từng bữa, lo bữa ăn hôm nay không biết bữa ăn ngày mai [43, tr.69]. - Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng [11, tr.171] Tóm lại, nghèo tuyệt đối phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn cùng cực, họ không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Tức là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở, sinh hoạt, vệ sinh, chăm sóc y tế và giáo dục [11, tr.171]. Còn nghèo tương đối phản ánh sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư khi so sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa phương trong một thời kỳ nhất định. Do đó, chúng ta có thể xóa nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương đối luôn xảy ra trong xã hội ở bất cứ quốc gia nào. Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn cứ vào thực trạng kinh tế-xã hội ở nước ta, trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa nhận định nghĩa về nghèo đói tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc- Thái Lan tháng 9 năm 1993. Đồng thời đưa ra quan điểm nghèo đói ở nước ta: Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện. Thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định [34, tr.7]. Mặt khác, vấn đề nghèo đói ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, đó là: Đói: là những hộ hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng [11, tr.172]. Hộ đói: là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tranh tre nứa lá, tạm bợ, mưa dột ướt. Hộ nghèo: là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, áo mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất. Xã nghèo: là xã có tỷ lệ trên 25% số hộ nghèo, thiếu kết cấu hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm xá, nước sạch…, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. Huyện nghèo: là địa bàn dân cư tương đối rộng, nằm ở những vùng khó khăn hiểm trở, biên giới, là huyện có tỷ lệ xã nghèo và hộ nghèo cao. Trên cơ sở quan điểm của Việt Nam về nghèo đói, hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo, chúng ta có thể chỉ ra số lượng, tỷ lệ hộ nghèo đói và xã nghèo... làm cơ sở khoa học để phân tích, đánh giá đúng đắn nhu cầu về vốn XĐGN cho đầu tư tăng trưởng và đầu tư phát triển cho xã nghèo, huyện nghèo. Như vậy, từ các định nghĩa của các tổ chức quốc tế và Việt Nam, cho ta rút ra đặc trưng của nghèo đói qua các khía cạnh như: nghèo đói là tình trạng con người bị thiếu thốn ở rất nhiều phương diện về thu nhập hạn chế, thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến bởi tự nhiên, xã hội; không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người; có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư; thiếu cơ hội lựa chọn và tham gia vào quá trình ra quyết định phát triển của cộng đồng. Đồng thời qua nghiên cứu các định nghĩa nói trên, chúng ta nhận thấy nghèo đói có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế. Nhưng tại sao nghèo đói vẫn tồn tại phổ biến và len lỏi các châu lục, kể cả các nước có nền kinh tế phát triển, cho nên nghèo đói là một hiện tượng kinh tế-xã hội phức tạp, chứ không thuần tuý về mặt kinh tế. Chúng ta không chỉ nghiên cứu nghèo đói ở góc cạnh của đời sống kinh tế mà còn phải đánh giá trên bình diện các nhân tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội, phong tục tập quán, môi trường và an ninh quốc phòng, từ đó tìm ra xu hướng, phương thức, biện pháp giải quyết vấn đề nghèo đói. Đánh giá đúng đắn những nhân tố tác động đến nghèo đói để xây dựng các giải pháp đồng bộ cho việc huy động và sử dụng vốn XĐGN bền vững ở Việt Nam, đặc biệt là vùng sâu, vùng cao, biên giới, vùng đồng bào DTTS tỉnh Kon Tum. 1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo Thuật ngữ “tiêu chí” và “chuẩn” có nghĩa như sau: tiêu chí là tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm [50, tr.990]. Như vậy, tiêu chí là một khái niệm để nhận biết một sự vật mang tính định tính. Còn “chuẩn” có nghĩa là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng. Vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường. Cái được công nhận là đúng theo quy định [50, tr.181]. Như vậy, chuẩn mang tính định lượng. Từ nội hàm của thuật ngữ “tiêu chí và chuẩn”, ta có thể hiểu tiêu chí xác định chuẩn nghèo: là thước đo lường của một tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội nào đó đưa ra để đánh giá mức thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia, vùng lãnh thổ. Nếu ai có thu nhập thấp dưới quy định đã đưa ra thì được gọi là người nghèo. Chuẩn nghèo là công cụ để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Các tổ chức Quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam) đưa ra những tiêu chí khác nhau để xác định nghèo đói. Cũng có những tiêu chí xác định nghèo đói luôn bị biến đổi theo không- thời gian. Về không gian, nó thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội, mức sống người dân ở từng vùng, từng quốc gia. Về thời gian, chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn và thay đổi theo tiến trình phát triển kinh tế- xã hội, theo nhu cầu của con người trong từng giai đoạn lịch sử. Việt Nam cho đến nay đã 4 lần đưa ra chuẩn nghèo khác nhau cho từng vùng, khu vực (xem bảng 1.1). 1.1.2.1. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu nghèo của các quốc gia dựa vào thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người trong một năm hoặc mức kcal tối thiểu là 2.100kcal/người/ngày. Với hai cách tính như sau: Phương pháp tính theo tỷ giá hối đoái (tính USD): theo phương pháp này, người ta chia thành 6 loại nước (lấy mức thu nhập bình quân năm 1990) để xác định người nghèo khổ Trên 25.000 USD/người/năm : nước cực giàu Từ 20.000 USD đến dưới 25.000 USD/người/năm : nước giàu Từ 10.000 USD đến dưới 20.000 USD/người/năm : nước khá giàu Từ 2.500 USD đến dưới 10.000 USD/người/năm : nước trung bình Từ 500 USD đến 2.500 USD/người/năm : nước nghèo Dưới 500 USD/ người/năm : nước cực nghèo Phương pháp tính theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity-PPP): Ngân hàng Thế giới khuyến nghị về chuẩn nghèo khổ cho các nước đang phát triển là thu nhập 1USD/người/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với đô la Mỹ để thoả mãn nhu cầu năng lượng tối thiểu cần thiết cho một người là 2.100 kcal/ngày; mức 2 USD trở xuống cho châu Mỹ Latinh và Carribean; mức 4 USD trở xuống cho các nước Đông Âu và 14,4 USD trở xuống cho các nước công nghiệp phát triển. Tuy vậy, mỗi quốc gia đều tự đưa ra tiêu chí riêng, chẳng hạn năm 2001, Mỹ đưa ra chuẩn nghèo là người có thu nhập dưới 12,4 USD/người/ngày; trước năm 2000, Trung Quốc đưa ra chuẩn nghèo là 960 nhân dân tệ/người/năm (tương đương 0,91 USD/người/ngày) [17, tr.113]. Theo cách tính này, trên thế giới hiện nay có khoảng 1,3 tỷ người nghèo đói và có thể tăng lên 1,5 tỷ người vào năm 2025 [1, tr.48-49]. Cũng theo phương pháp xác định này, các khu vực có người nghèo đói lớn nhất trên thế giới là châu Phi có 80%; khu vực Nam Á có 79% và Trung Đông - Bắc Phi là 61% [19, tr.48]. Ngân hàng Thế giới căn cứ vào thu nhập bình quân đầu người để đánh giá mức độ giàu nghèo thì chưa phản ánh được toàn diện trình độ phát triển, về mức sống và an sinh xã hội của một quốc gia. Vì vậy, cơ quan nghiên cứu con người của Liên hợp quốc đưa ra Chỉ số phát triển con người (HDI) để đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con người. Chỉ số HDI đo thành tựu trung bình của một quốc gia trên ba phương diện của sự phát triển con người được tính bằng các tiêu chí, đó là: Tuổi thọ trung bình từ lúc sinh; Tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp giáo dục; Thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương (PPP) Chỉ số HDI được tính bằng công thức sau: HDI = Trong đó: IA là chỉ số đo tuổi thọ; IE là chỉ số đo tri thức giáo dục (kiến thức); IIN là chỉ số đo mức sống [36, tr.134]. Chỉ số HDI nhận các giá trị biến thiên từ 0 đến 1; giá trị HDI của một quốc gia chỉ ra khoảng cách giữa mức độ tiến bộ trong phát triển con người đã đạt được với giá trị cao nhất có thể là 1. Vì vậy, thách thức đặt ra đối với nước ta là phải tìm ra các giải pháp để đạt được những giá trị tiến bộ trong phát triển con người. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc về chỉ số HDI năm 2007-2008, so với các nước có cùng điều kiện kinh tế xã hội, Việt Nam đã có những tiến bộ rõ rệt, chỉ số HDI được 0,733 điểm, từ vị trí 109 lên vị trí 105 trong tổng số 177 nước được điều tra, tăng 4 bậc so với năm 2006-2007 và được xếp vào các nước có liên tục được cải thiện trong 20 năm qua [64]. Điều đó, chứng tỏ đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện. 1.1.2.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam Thời gian qua, Việt Nam dựa trên hai loại tiêu chí để xác định chuẩn nghèo. * Một là, xác định đường nghèo đói theo chuẩn quốc tế do Tổng cục thống kê và Ngân hàng Thế giới đưa ra để đánh giá nghèo khổ trên giác độ vĩ mô. Ngân hàng Thế giới đã thực hiện trong các cuộc khảo sát ở Việt Nam qua các năm (1992 đến 1993; 1997 đến 1998 và 2002), thông qua chi tiêu bình quân đầu người để đo lường mức sống dân cư mà xác định đường nghèo đói. Đường nghèo đói lương thực, thực phẩm đã được các nước đang phát triển áp dụng: một giỏ tiêu dùng sẽ được tính, bao gồm 16 mặt hàng (chi tiêu lương thực, thực phẩm phải đảm bảo đủ 2.100 kcal/người/ngày), nếu hộ gia đình không đáp ứng được giỏ tiêu dùng này sẽ được xác định là hộ nghèo. Nếu tính cả chi tiêu này cộng thêm chi tiêu cho các mặt hàng phi lương thực thực phẩm như quần áo, nhu cầu thông tin…, gọi là đường nghèo chung, đường nghèo chung được xác định ở mức cao hơn đường nghèo lương thực thực phẩm. * Hai là, chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đưa ra dựa trên tiêu chí thu nhập bình quân đầu người để áp dụng trong công tác XĐGN. Cho đến nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã 4 lần công bố chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn, lúc đầu chuẩn nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang thu nhập. Việc xác định chuẩn nghèo dựa trên chỉ tiêu thu nhập của hộ gia đình được tiến hành khảo sát, điều tra mức sống qua các năm 1993, 1998, 2002 và 2004 và có kết quả công bố chuẩn nghèo cho từng giai đoạn. Theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ đã ký, chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006-2010 đã được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu, mức sống của người dân và gần sát với chuẩn nghèo của quốc tế (xem bảng 1.1). Bảng 1.1: Quy định chuẩn nghèo của Việt Nam cho từng giai đoạn Chuẩn nghèo đói qua các giai đoạn Phân loại người nghèo đói Mức thu nhập bình quân/người/tháng 1993 - 1995 (mức thu nhập quy ra gạo) Đói khu vực nông thôn Dưới 8 kg Đói khu vực thành thị Dưới 13 kg Nghèo khu vực nông thôn Dưới 15 kg Nghèo khu vực thành thị Dưới 20 kg 1996 - 2000 (mức thu nhập quy ra gạo tương đương với số tiền) Đói (tính cho mọi khu vực) Dưới 13 kg (45.000 đồng) Nghèo khu vực nông thôn miền núi, hải đảo Dưới 15 kg (55.000 đồng) Nghèo khu vực nông thôn, đồng bằng trung du Dưới 20 kg (70.000 đồng) Nghèo khu vực thành thị Dưới 25 kg (90.000 đồng) 2001 - 2005 (mức thu nhập tính bằng tiền) Nghèo khu vực nông thôn miền núi, hải đảo Dưới 80.000 đồng Nghèo khu vực nông thôn, đồng bằng trung du Dưới 100.000 đồng Nghèo khu vực thành thị Dưới 150.000 đồng 2006 - 2010 (mức thu nhập tính bằng tiền) Nghèo khu vực nông thôn Dưới 200.000 đồng Nghèo khu vực thành thị Dưới 260.000 đồng Nguồn: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Quyết định 170/2005/QĐ-TTg. 1.1.3. Đặc điểm nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số 1.1.3.1. Nghèo đói mang tính chất vùng cao, vùng giáp ranh biên giới Nghèo đói của đồng bào DTTS sinh sống chủ yếu ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồi núi đá, dốc, vùng giáp ranh biên giới. Nghèo đói của họ mang tính chất vùng rất rõ rệt, tập trung chủ yếu ở các vùng miền núi, Tây Nguyên là vùng nghèo nhất cả nước, tiếp đến là vùng miền núi phía Bắc và duyên hải Bắc Trung bộ [34, tr.9]. Các dân tộc thiểu số Việt Nam cư trú chủ yếu trên địa bàn vùng cao rộng lớn, chiếm gần ¾ lãnh thổ quốc gia [24, tr.6]. Đây là vùng có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai thường xuyên xảy ra, làm cho đời sống của đồng bào DTTS phụ thuộc và chịu sự tác động bởi các yếu tố tự nhiên. Hầu hết đời sống của họ gắn liền với rừng và đất rừng. Chẳng hạn, dân tộc Brâu và Rơmăm sống chủ yếu nhờ vào nương rẫy theo lối chọc tra hạt và hái lượm. Đồng bào DTTS ít có khả năng tiếp cận với các nguồn lực trong sản xuất như vốn, kỹ thuật, công nghệ… Thị trường tiêu thụ sản phẩm của họ gặp nhiều khó khăn do địa hình chia cắt, giao thông trắc trở. 1.1.3.2. Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đói là sinh nhiều con Quy mô hộ gia đình đồng bào DTTS đông con

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuanvan.doc moi.doc
  • docbia ngoai.doc
Tài liệu liên quan