Luận văn Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của cảng Khuyến Lương

Doanh nghiệp hoạt động sản xuất và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận làm một trong những mục tiêu hàng đầu. Để đạt được mục tiêu đó trong điều kiện hiện nay khi mà hầu hết các nguồn lực đã trở nên khan hiếm thì bắt buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả đầu vào hay nói chính xác là phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề quan trọng và có tính thực tiễn, nó góp phần nâng cao khả năng của doanh nghiệp trên thương trường.

Nền kinh tế mở cửa và hội nhập đã và đang tạo ra những cơ hội và thách thức cho tất cả các doanh nghiệp. Để đứng vững trong cơ chế đó cảng Khuyến Lương – một doanh nghiệp thành viên của Xí nghiệp liên hợp vận tải biển pha sông đã làm hết sức mình nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh. Song trong thực tế các chỉ tiêu hiệu quả (hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng lao động) còn thấp. Sau một thời gian thực tập tại cảng em nhận thấy ngoài những biện pháp nâng cao hiệu quả mà cảng hiện đang áp dụng còn cần có những biện pháp sát hơn nữa với tình hình thực tế tại cảng. Được sự giúp đỡ của cán bộ công nhân viên cảng Khuyến Lương và sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thu Thuỷ em đã lựa chọn đề tài:

“”Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của cảng Khuyến Lương

Kết cấu luận văn gồm có 3 phần :

Chương I : Một số vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Chương II : Tình hình hiệu quả sản xuất kinh doanh tại cảng Khuyến Lương.

Chương III : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Do lượng kiến thức còn hạn hẹp chuyên đề vần còn nhiều thiếu sót em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.

 

doc83 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 922 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của cảng Khuyến Lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Doanh nghiệp hoạt động sản xuất và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận làm một trong những mục tiêu hàng đầu. Để đạt được mục tiêu đó trong điều kiện hiện nay khi mà hầu hết các nguồn lực đã trở nên khan hiếm thì bắt buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả đầu vào hay nói chính xác là phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề quan trọng và có tính thực tiễn, nó góp phần nâng cao khả năng của doanh nghiệp trên thương trường. Nền kinh tế mở cửa và hội nhập đã và đang tạo ra những cơ hội và thách thức cho tất cả các doanh nghiệp. Để đứng vững trong cơ chế đó cảng Khuyến Lương – một doanh nghiệp thành viên của Xí nghiệp liên hợp vận tải biển pha sông đã làm hết sức mình nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh. Song trong thực tế các chỉ tiêu hiệu quả (hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng lao động) còn thấp. Sau một thời gian thực tập tại cảng em nhận thấy ngoài những biện pháp nâng cao hiệu quả mà cảng hiện đang áp dụng còn cần có những biện pháp sát hơn nữa với tình hình thực tế tại cảng. Được sự giúp đỡ của cán bộ công nhân viên cảng Khuyến Lương và sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thu Thuỷ em đã lựa chọn đề tài: “”Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của cảng Khuyến Lương Kết cấu luận văn gồm có 3 phần : Chương I : Một số vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chương II : Tình hình hiệu quả sản xuất kinh doanh tại cảng Khuyến Lương. Chương III : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do lượng kiến thức còn hạn hẹp chuyên đề vần còn nhiều thiếu sót em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I Một số vấn đề lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh. I. Bản chất và vai trò của hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khái niệm. Những biến đổi lớn lao về kinh tế xã hội là cái tất yếu sẽ xảy ra trong quá trình lịch sử tự nhiên mà không tuân theo ý muốn chủ quan của con người – Mác đã nhận định như vậy khi đề cập đến sự phát triển đi lên của phương thức sản xuất cộng sản. Cho đến nay khi mà cơ chế thị trường đang ngày càng tỏ rõ tính linh hoạt của nó điều rút ra ở trên vẫn đúng. Tuy khác với nền kinh tế thời cổ điển ngày nay mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đều xây dựng mục tiêu bao trùm lâu dài đó là phải tối đa hoá lợi nhuận. Trên phương diện lý thuyết để thực hiện được mục tiêu trên các doanh nghiệp đó phải hoạt động có hiệu quả, có nghĩa là phải phân bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất. Vậy phải hiểu phạm trù hiệu quả như thế nào cho đúng, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, các quan điểm trên đều được đưa ra dựa trên sự đánh giá khác nhau về các lĩnh vực. Có thể nói rằng mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp song lại khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh. Theo cuốn “Từ điển kinh tế học” thì hiệu quả kinh tế phản ánh mối quan hệ so sánh giữa các đầu vào khan hiếm với kết quả đầu ra. Đầu vào ở đây bao gồm 3 yếu tố đó là vốn (tư bản), lao động và đất đai, các yếu tố này không phải là sẵn có mà ngược lại càng ngày chúng càng trở nên khan hiếm do nhu cầu cho sản xuất thì rất lớn trong khi đó tài nguyên không thể sinh sôi nảy nở trong ngày một ngày hai, mà nó đươc hình thành từ cách đây hàng trăm, hàng triệu năm. Tập hợp các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất tạo nên chí phí sản xuất, kinh doanh. Còn đầu ra của sản xuất là sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, đầu ra không phải lúc nào cũng đáp ứng được đòi hỏi của con người bởi nó còn tuỳ thuộc vào một số yếu tố như năng lực sản xuất của doanh nghiệp, trình độ tay nghề của người lao động, trình độ quản trị, quản lý sản xuất ... Do vậy kết quả đầu ra được tính bằng khối lượng sản phẩm dịch vụ hoặc doanh thu ở đây có những hạn chế nhất dịnh. Đôi khi đầu vào của sản xuất là rất lớn song đầu ra lại rất nhỏ và ngược lại, điều đó còn tuỳ thuộc vào trình độ sử dụng phương tiện sản xuất thấp hay cao. Chúng ta không thể áp đặt một cách tuỳ tiện quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà chỉ đóng vai cho giám sát và điều hành sao cho có hiệu quả. Điều đó có nghĩa là trong khả năng cho phép của năng lực sản xuất phải đặt ra được giới hạn lớn nhất của chi phí sản xuất - đầu vào và giới hạn ngày càng thấp càng tốt sao cho trong giới hạn đó kết quả đầu ra là tối đa. Tuy nhiên có một thực tế là nếu muốn kết quả càng tăng thì chi phí sản xuất càng tăng. Nếu xét về bản chất thì quan điểm trên vẫn bám sát bản chất của hiệu quả kinh doanh nhưng “mối quan hệ so sánh” không được xác định rõ ở dạng nào tổng, tích hay thương. Bởi vậy muốn áp dụng nó thì phải cân nhắc giữa các mục tiêu đánh giá là lợi nhuận ngắn hạn hay dài hạn, mục tiêu riêng lẻ hay bao trùm, tổng thể, mục tiêu cá nhân hay xã hội. Cũng xem xét về hiệu quả kinh tế trong cuốn giáo trình “Kinh tế học”của P.Samueleson và W.Nordhaus lại đưa ra quan điểm: “hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó”. Quan điểm này được xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nó đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội - hiệu quả nghĩa là không có sự lãng phí. Theo quan điểm này hiệu quả thể hiện sự so sánh giữa mức phân bổ nguồn lực trên thực tế với mức phân bổ tối đa về sản lượng, tỷ lệ so sánh đó càng tiến gần tới 1 có nghĩa là việc phân bổ nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng nó trên đường giới hạn khả năng sản xuất thì càng có hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế để đạt được mức hiệu quả này sẽ cần rất nhiều điều kiện, trong đó đòi hỏi phải dự báo và quyết định đầu tư sản xuất theo quy mô phù hợp với nhu cầu của thị trường. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được. Ngoài ra vẫn còn có rất nhiều quan điểm khác xung quanh vấn đề hiệu quả như quan điểm của Manfred Kulm trong “từ điển kinh tế” Hamburg 1990 cho rằng: “tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh”. Hay có quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với chi phí thấp nhất. Hoặc hiệu quả là mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh phải chi ra trong điều kiện thuận lợi nhất hay đó là chi phí phải đạt với chi phí thực tế phát sinh. Nhưng nhìn chung các quan điểm trên về cơ bản là không có mâu thuẫn lớn khi đề cập đến bản chất của hiệu quả trong hoạt động kinh tế. Tuy nhiên từ các quan điểm trên có thể khái quát chung lại rằng: hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Từ cách lập luận trên ta có thể rút ra công thức mô tả hiệu quả kinh doanh như sau: Trong đó: H – hiệu quả kinh tế K – kết quả đạt được C - hao phí nguồn lực cần thiết Tuy nhiên bản thân của thuật ngữ “tính hiệu quả” đôi khi cũng bị sử dụng không đúng chỗ. Do vậy cần có sự phân biệt rõ các loại hiệu quả để có một cách hiểu đúng đắn hơn. + Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh tế của một thời kì nào đó. + Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. + Hiệu quả kinh tế – xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định. + Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu) phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm mục tiêu kinh doanh ở doanh nghiệp. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá và thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kì. +Hiệu quả kinh tế của nền kinh tế quốc dân phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng nguồn lực để đạt mục tiêu kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Trong phạm vi của bài viết chỉ nghiên cứu và làm rõ về vấn đề hiệu quả kinh doanh. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất (lao động, máy móc thiết bị, nguyên liệu, vốn) trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực chất nó là việc nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội, đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đã đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh ngiệp buộc phải chú trọng vào các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chí phí. Vì vậy yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án tốt nhất, các mặt hàng được sản xuất có hiệu quả hơn. 3.Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngày nay việc khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực là yêu cầu bức thiết đặt ra không chỉ dành riêng cho bất kì quốc gia nào. Xuất phát từ yêu cầu trên cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đóng vai trò quan trọng thể hiện trên một số khía cạnh sau. Thứ nhất, trên giác độ toàn bộ nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là tận dụng và tiết kiệm các nguồn lực hiện có. Hoạt động chính của nền kinh tế là nhằm tái đầu tư mở rộng nền sản xuất xã hội - đây là quy luật tất yếu của bất kì nền kinh tế nào. Để tiến hành công cuộc này cần phải huy động khối lượng lớn các nguồn lực, do vậy bằng mọi giá phải sử dụng chúng một cách có hiệu quả, tạo nên sự tích luỹ cơ bản làm bước đệm cho sự phát triển đặc biệt là đối với những nước đang phát triển như ở nước ta. Bên cạnh đó nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhằm từng bước tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao mức sống cho người lao động. Nước ta cũng như các nước đang phát triển, hầu hết đều là những nước nghèo, tình trạng yếu kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo nhiều công việc cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu đòi hỏi các doanh nghiệp phải đưa ra những biện pháp nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất, tạo thêm công việc cho người lao động. Ngoài ra còn đòi hỏi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống cho người lao động. Xét trên toàn diện nền kinh tế việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập quốc dân bình quân, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội,... Nâng cao hiệu quả kinh doanh còn nhằm tăng thu ngân sách và tái phân phối lợi tức xã hội. Mọi doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trên thị trường đều phải có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế. Nhà nước sử dụng nhưng khoản thu này để phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và ở các lĩnh vực phi sản xuất góp phần phân phối lại thu nhập quôc dân. Mặt khác từng bước xoá bỏ sự cách biệt về mặt kinh tế - xã hội giữa các vùng lãnh thổ quốc gia như ở nước ta hiện nay, góp phần tái phân phối lợi tức giữa các vùng đòi hỏi cần có những chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vào các vùng kinh tế xa xôi, hẻo lánh đưa miền núi tiến ngang đồng bằng, nông thôn tiến bằng thành thị. Thứ hai, trên giác độ doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhằm tăng khả năng cạnh tranh, tạo thế đứng vững chắc cho doanh nghiệp. Hiệu quả là một trong bốn yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, ba yếu tố còn lại là chất lượng, sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng và sự đổi mới trong sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả kinh doanh thì có thể hạ thấp được chi phí cần thiết xuống dưới mức chi phí của đối thủ cạnh tranh. Như vậy nó vừa đạt được mục tiêu lợi nhuận đề ra vừa có thể cạnh tranh với những đối thủ khác. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được biểu hiện thông qua một số chỉ tiêu như: chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, sử dụng lao động... Nếu doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh trước tiên nó đã sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả, sau đó những chỉ tiêu này sẽ hấp dẫn những nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Lúc này doanh nghiệp sẽ có điều kiện để trang bị lại hoặc thay thế công nghệ đã lạc hậu. Có vốn doanh nghiệp cũng có điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất, tận dụng mọi năng lực hiện có và kết quả là lợi nhuận càng tăng cao. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp là một tác nhân trong nền kinh tế và có thể được ví như một thực thể sống trong môi trường. Các yếu tố, điều kiện trong môi trường kinh doanh luôn vận động biến đổi, tương tác với nhau và có những tác động tạo nên thuận lợi hay không thuận lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải nhận biết nhanh chóng và dự báo chính xác những thay đổi có thể xảy ra trong môi trường kinh doanh từ đó có thể thích ứng và trong một chừng mực nào đó có thể chủ động làm thay đổi các điều kiện môi trường để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ra làm hai nhóm sau: 4.1. Nhóm nhân tố thuộc môi trường bên ngoài. 4.1.1. Môi trường chính trị, pháp luật. Các nhân tố chính trị, pháp luật có vai trò làm nền tảng để hình thành các yếu tố khác của môi trường kinh doanh, tức là quan điểm đường lối chính trị nào, hệ thống pháp luật và chính sách nào thì sẽ có môi trường kinh doanh đó. Quan điểm, đường lối chính trị, hoạt động của các cơ quan nhà nước có thể tạo ra các thời cơ hoặc cản trở đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu tạo dựng một thể chế chính trị ổn định, đường lối rộng mở nó sẽ tác động và tạo thuận lợi cho cả hai phía. Cụ thể đó là các doanh nhân trong nước có cơ hội để tham quan, khảo sát thị trường bên ngoài và phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh ra ngoài phạm vi lãnh thổ. Ngược lại thì các doanh nhân nước ngoài có dịp để tìm hiểu, liên kết với các đối tác kinh doanh trong nước hoặc bỏ vốn đầu tư vào các hạng mục, lĩnh vực mà nền sản xuất trong nước vẫn chưa đáp ứng được. Hệ thống luật pháp, các chính sách... đồng bộ, hoàn thiện khung khổ pháp lý và giới hạn cho việc bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp vừa đảm bảo cho việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô theo hướng không chỉ chú ý đến hiệu quả riêng mà còn phải chú ý đến lợi ích của các thành viên khác trong xã hội. Do đó nó phải không ngừng được hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển kinh tế. Ngày nay cùng với xu hướng hội nhập và để giảm bớt `khoảng cách lạc hậu giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Thể chế chính trị và pháp luật đã được hoàn thiện, đơn giản hoá các thủ tục, luật lệ để thu hút các nguồn đầu tư từ nước ngoài cho một số ngành trọng điểm như khai thác, tinh luyện, dầu mỏ, chế tạo máy móc thiết bị,... 4.1.2. Môi trường sinh thái và các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng. Trong thực tế các yếu tố tự nhiên có thể tạo nên những thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, của một ngành, thậm chí một quốc gia. Tuy vậy các vận hội hoặc bất lợi do các yếu tố tự nhiên gây ra chỉ trong giới hạn với không gian và thời gian nhất định. Vượt quá giới hạn đó các yếu tố này sẽ không còn ảnh hưởng lớn. Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước... cũng như sự phát triển của giáo dục và đào tạo... đều là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nằm trong khu vực có điều kiện cơ sở hạ tầng vững chắc doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển sản xuất, tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí kinh doanh,... nhờ vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngược lại nếu kinh doanh trong khu vực không thuận lơi về cơ sở hạ tầng, không thể tiêu thụ được hàng hoá dịch vụ dẫn tới hiệu quả kinh tế thấp. 4.1.3. Môi trường kinh tế. Trong môi trường kinh doanh các yếu tố kinh tế dù ở bất kỳ cấp độ nào cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ sự hình thành hệ thống tổ chức quản lý và các thiết chế của hệ thống đó có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến chiều hướng và cường độ của các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế nói chung cũng như trong từng ngành, từng vùng và từng doanh nghiệp nói riêng. Các nhân tố kinh tế cần phải được nghiên cứu và dự báo bao gồm: trạng thái phát triển của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng, các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế,... Các nhân tố này có ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển kinh tế nên nó có tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp thuộc các ngành, vùng kinh tế nhất định. 4.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp. 4.2.1. Lực lượng lao động. Không ai có thể phủ nhận vai trò của lực lượng lao động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Khoa học công nghệ dù có phát triển đến đâu, máy móc thiết bị có hiện đại, tối tân đến đâu cũng đều là sản phẩm lao động trí óc của con nguời. Vì vậy con người là nhân tố trung tâm của hoạt động sản xuất kinh doanh. Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là lực lượng lao động. Bởi vậy trình độ của lực lượng lao động là yếu tố chính quyết định đến năng suất lao động thông qua đó mà ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nếu lực lượng lao động có trình độ, đồng đều sẽ giúp giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp trong việc quản lý, kiểm tra chất lượng. Bên cạnh đó việc nâng cao ý thức cho người lao động, tự giác hoàn thành nhiệm vụ, tuân thủ kỷ luật lao động cũng góp phần làm cho sản xuất ổn định hơn, tính hiệu quả cao hơn. Ngày nay sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm (dịch vụ) rất cao. Điều này đòi hỏi lực lượng lao độmg phải là lực lượng tinh nhuệ, có trình độ khoa học kỹ thuật cao, có tinh thần sáng tạo trong công việc. Do vậy lực lượng lao động ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 4.2.2. Kỹ thuật công nghệ và hệ thống thông tin. Cùng với lực lượng lao động, yếu tố kỹ thuật công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng và ý nghĩa ngày càng quyết định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước tiên phải nói đến là kỹ thuật công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến hai yếu tố tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó là chất lượng và giá cả. Bất kỳ hoạt động sản xuất sản phẩm nào đều cần tới công nghệ cho dù đó là công nghệ đơn sơ nhất. Công nghệ càng hiện đại thì càng rút ngắn được thời gian sản xuất sản phẩm, càng nâng cao chất lượng sản phẩm hơn, giá thành hạ thấp hơn. Như vậy doanh nghiệp càng đứng vững hơn trong cạnh tranh. Thứ hai là khoa học công nghệ có tác động đến quá trình trang bị và trang bị lại cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, ngành, địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc dân thông qua hai phương thức: chuyển giao công nghệ hoặc tự đầu tư nghiên cứu đổi mới công nghệ để phù hợp với trình độ sản xuất của doanh nghiệp. Ngoài ra kỹ thuật công nghệ mới còn ảnh hưởng đến quá trình thu thập và xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin kinh tế xã hội và sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp những thông tin về chính sách của nhà nước, thông tin từ thị trường và phản hồi từ phía người tiêu dùng là rất quan trọng, nó giúp cho doanh nghiệp định hướng được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngày nay với những phương tiện kỹ thuật hiện đại đã đơn giản hoá quá trình thu thập và xử ký kịp thời thông tin, quá trình này diễn ra càng chính xác, tỷ mỉ thì các quyết định quản lý càng có tính khả thi. Tác động cuối cùng là chính khoa học công nghệ đã thúc đẩy hoạt động sôi nổi hơn theo hướng bảo vệ môi trường sinh thái giúp doanh nghiệp không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình mà còn góp phần nâng cao hiệu quả chung của xã hội. Trong quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các bộ phận, phòng ban cũng như giữa người lao động với doanh nghiệp luôn có mối quan hệ ràng buộc đòi hỏi phải giao tiếp, liên lạc và trao đổi với nhau những thông tin cần thiết. Thông tin đến với doanh nghiệp qua hai con đường chính: thông tin chính thức bao gồm những thông tin về chính sách, quy định quy trình thủ tục, thông tin phản hồi báo cáo, tư vấn và thông tin không chính thức xuất hiện như là một tất yếu khách quan trong thực tế các doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng các luồng thông tin này để phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý do vậy thông tin càng chính xác, chi tiết thì tính hiệu lực của quyết định càng cao. Ngày nay khoa học kỹ thuật đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng điều này đã giúp cho doanh nghiệp rất nhiều trong việc thu thập và lưu trữ thông tin một cách nhanh chóng kịp thời. Tóm lại ngày càng có nhiều quan điểm đồng tình cho rằng quản trị công nghệ là một trong những trách nhiệm cốt yếu của nhà quản trị. Các doanh nghiệp nên thực thi các chiến lược tận dụng được cơ hội của công nghệ nhằm giành được lợi thế cạnh tranh trên thương trường. 4.2.3. Tổ chức cung ứng nguyên vật liệu. Quá trình lao động là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất hoá lý của đối tượng lao động để làm ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trưòng. Như vậy nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất trực tiếp tạo nên thực thể của sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Do vậy bảo đảm chất lượng nguyên vật liệu là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm. Xét về mặt tài chính ta còn thấy: vốn bỏ ra mua nguyên vật liệu thường chiếm một tỷ lệ lớn trong vốn lưu động (khoảng từ 40% đến 60% tổng vốn lưu động). Về mặt kinh doanh trong cơ cấu giá thành yếu tố nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng từ 60% đến 80%. Đứng trên góc độ này có thể rút ra kết luận nguyên vật liệu không những giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất mà nó còn giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý giá thành và tài chính tại các doanh nghiệp. Do vậy ở các doanh nghiệp nhiệm vụ tổ chức cung ứng và cấp phát nguyên vật liệu là rất quan trọng. Khâu cung ứng phải đảm bảo nhập nguyên vật liệu đầy đủ cả về số lượng và chất lượng nhưng giá cả phải rẻ hơn. Điều này đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải tạo ra mối quan hệ tốt với những nhà cung ứng và chủ động tìm kiếm nguồn cung ứng mới có lợi hơn. Khâu cấp phát phải đảm bảo đủ số lượng, tránh cấp phát thừa gây lãng phí. Để làm tốt công tác này phải đề ra được một định mức tiêu dùng nguyên vật liệu sau đó tổ chức cấp phát theo định mức. Định mức được xây dựng phải dựa trên những thông số kỹ thuật của sản phẩm. Có như vậy chất lượng sản phẩm mới được đảm bảo. 4.2.4. Nhân tố quản trị doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh thông qua việc xác định những định hướng, hướng đi đúng đắn trong môi trường kinh doanh. Định hướng đúng chính là cơ sở để đảm bảo hiệu quả lâu dài cho doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh quản trị doanh nghiệp khai thác và thực hiện phân bổ nguồn lực sản xuất. Chất lượng của hoạt động này cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng kinh doanh ở mỗi thời kỳ. Đội ngũ các nhà lãnh đạo đặc biệt là những nhà quản trị cấp cao có vai trò quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ này cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp, việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, cá nhân và thiết lập các mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức đó. Trong phần phân tích trên ta mới chỉ đề cập đến những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp nói chung. Riêng đối với những doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực dịch vụ ngoài những nhân tố kể trên các đặc điểm của ngành dịch vụ cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả kinh doanh. Cảng Khuyến Lương là một doanh nghiệp kinh doa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100178.doc
Tài liệu liên quan