Luận văn Phân tích thực trạng hệ thống NHTM Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động tín dụng và dịch vụ của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố cần thơ giai đoạn 2002-2004

Đầu năm 2004, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam và 10 NHTM cổ phần đã

thành lập hệ thống liên minh thẻ, và đặc biệt mới đây 3 NHTM quốc doanh gồm Ngân

hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng

Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam và 4 NHTM cổ phần cùng với công

ty Điện toán & Truyền số liệu (VDC) thành lập nên công ty cổ phần với tên gọi

BankNet sẽ bắt tay nhau hoà mạng hệ thống các máy ATM trên toàn quốc cho phép

khách hàng sử dụng thẻ ATM thuận tiện hơn rất nhiều trong việc thanh toán qua các

máy ATM vì chỉ sử dụng thẻ ATM tại Ngân hàng phát hành thẻ, khách hàng có thể sử

dụng được tất cả các máy ATM của mọi thành viên thuộcBankNet hay hệ thống thẻ

liên minh của Ngân hàng Ngoại Thương và 10 NHTM cổ phần.

Tuy nhiên, hiện nay các máy ATM trên địa bàn TP Cần Thơ chỉ mới cho phép

thực hiện các chức năng đơn thuần như: Rút tiền mặt và tra vấn số dư tiền gửi. Máy

chưa cho phép khách hàng nộp tiền mặt qua máy, thanh toán tiền cước phí điện thoại

hay trả tiền điện, nước.và mỗi thẻ ATM chỉ được dùng riêng cho từng ngân hàng,

chưa được nối mạng hội liên minh thẻ của Ngân hàng Ngoại Thương và mạng

BankNet.

- Một số dịch vụ ngân hàng điện tử như: Internet banking, Mobi banking,

Home banking, Phone banking.vẫn chưa được các NHTM trên địa bàn sử dụng,

nguyên nhân là do các dịch vụ ngân hàng điện tử này đòi hỏi về tính năng kỹ thuật và

công nghệ tương đối cao. Trong khi đó, trình độ cán bộ nhân viên các NHTM còn

nhiều hạn chế, việc tìm hiểu và sử dụng côngnghệ hiện đại đòihỏi phải mất nhiều

thời gian và chi phí cho việc đào tạo cán bộ sử dụng. Hiện nay, các NHTM Việt Nam

chỉ mới ở giai đoạn nghiên cứu thí điểm các loại hình dịch vụ này.

- Do công nghệ còn lạc hậu, cácdịch vụ ngân hàng điện tử như: Phone

banking, Internet banking, Home banking.chưađược triển khai trên địa bàn. Do đó,

hệ thống thanh toán quốc tế còn nhiều bất cập, khách hàng đến giao dịch như: Mở

L/C nhập khẩu, tu chỉnh L/C, thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế.phải đi lại

nhiều lần và tốn nhiều thời gian chờ đợiđể nhận hồ sơ, chứng từ về nhập khẩu.

pdf55 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1007 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Phân tích thực trạng hệ thống NHTM Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động tín dụng và dịch vụ của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố cần thơ giai đoạn 2002-2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trung vào các Ngân hàng như: Ngoại thương (07 máy), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn (02 máy), Đông Á (02 máy), Công Thương (01 máy), Sài Gòn Công thương (01 máy) và Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu (01 máy). Trang 39 Đầu năm 2004, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam và 10 NHTM cổ phần đã thành lập hệ thống liên minh thẻ, và đặc biệt mới đây 3 NHTM quốc doanh gồm Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam và 4 NHTM cổ phần cùng với công ty Điện toán & Truyền số liệu (VDC) thành lập nên công ty cổ phần với tên gọi BankNet sẽ bắt tay nhau hoà mạng hệ thống các máy ATM trên toàn quốc cho phép khách hàng sử dụng thẻ ATM thuận tiện hơn rất nhiều trong việc thanh toán qua các máy ATM vì chỉ sử dụng thẻ ATM tại Ngân hàng phát hành thẻ, khách hàng có thể sử dụng được tất cả các máy ATM của mọi thành viên thuộc BankNet hay hệ thống thẻ liên minh của Ngân hàng Ngoại Thương và 10 NHTM cổ phần. Tuy nhiên, hiện nay các máy ATM trên địa bàn TP Cần Thơ chỉ mới cho phép thực hiện các chức năng đơn thuần như: Rút tiền mặt và tra vấn số dư tiền gửi. Máy chưa cho phép khách hàng nộp tiền mặt qua máy, thanh toán tiền cước phí điện thoại hay trả tiền điện, nước...và mỗi thẻ ATM chỉ được dùng riêng cho từng ngân hàng, chưa được nối mạng hội liên minh thẻ của Ngân hàng Ngoại Thương và mạng BankNet. - Một số dịch vụ ngân hàng điện tử như: Internet banking, Mobi banking, Home banking, Phone banking...vẫn chưa được các NHTM trên địa bàn sử dụng, nguyên nhân là do các dịch vụ ngân hàng điện tử này đòi hỏi về tính năng kỹ thuật và công nghệ tương đối cao. Trong khi đó, trình độ cán bộ nhân viên các NHTM còn nhiều hạn chế, việc tìm hiểu và sử dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi phải mất nhiều thời gian và chi phí cho việc đào tạo cán bộ sử dụng. Hiện nay, các NHTM Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn nghiên cứu thí điểm các loại hình dịch vụ này. - Do công nghệ còn lạc hậu, các dịch vụ ngân hàng điện tử như: Phone banking, Internet banking, Home banking...chưa được triển khai trên địa bàn. Do đó, hệ thống thanh toán quốc tế còn nhiều bất cập, khách hàng đến giao dịch như: Mở L/C nhập khẩu, tu chỉnh L/C, thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế...phải đi lại nhiều lần và tốn nhiều thời gian chờ đợi để nhận hồ sơ, chứng từ về nhập khẩu. * KẾT LUẬN CHƯƠNG II: Qua phân tích thực trạng lợi thế cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam so với các Ngân hàng nước ngoài, và thực trạng hoạt động tín dụng & dịch vụ của các NHTM TP Cần Thơ cho thấy các NHTM Việt Nam nói chung và các NHTM Cần Thơ nói riêng còn một số hạn chế trong hoạt động tín dụng & dịch vụ so với các Ngân hàng nước ngoài khi hội nhập kinh tế. Do đó, việc tìm ra các giải pháp để mở rộng tín dụng và dịch vụ, khắc phục những hạn chế nâng cao sức cạnh tranh cho các Ngân hàng thương mại thành phố Cần Thơ là hết sức cần thiết khi hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm giữ vững và tăng trưởng thị phần tín dụng – dịch vụ trên địa bàn, góp phần thúc đẩy kinh tế TP.Cần Thơ ngày càng phát triển. Trang 40 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG & DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TRÊN ĐỊA BÀN TP CẦN THƠ Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, mở rộng tín dụng & dịch vụ sẽ giúp cho ngân hàng chiếm lĩnh được thị trường, sử dụng tối ưu nguồn vốn đã huy động, phân tán được rủi ro, ngân hàng có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận, phát triển thành những tập đoàn tài chính. Mở rộng tín dụng & dịch vụ ngân hàng là việc làm hết sức cần thiết đối với sự phát triển của NHTM nhưng việc mở rộng phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của thành phố, định hướng phát triển của đất nước, thực trạng hoạt động và nguồn vốn huy động trên địa bàn . 3.1 Chủ trương định hướng mở rộng hoạt động tín dụng và dịch vụ ngân hàng trên địa bàn thành phố Cần Thơ: Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định“ Đồng bằng sông Cửu Long với thế mạnh là vùng sản xuất lương thực, rau qủa hàng hóa lớn nhất của cả nước, cần tập trung tăng nhanh diện tích gieo trồng, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm đi đôi với phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản xuất khẩu và dịch vụ, tích cực đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển và hoàn thiện mang lưới giao thông thủy bộ, các khu công nghiệp trọng điểm, phát triển công nghiệp may mặc, dệt, da giầy, chế biến thức ăn gia súc, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa chất...” đây sẽ là các ngành kinh tế mũi nhọn, làm động lực cho toàn vùng ĐBSCL phát triển . Theo nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 17/02/2005 về xây dựng và phát triển TP.Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có nêu rỏ là phải chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, tập trung cho nông nghiêp và phát triển nông thôn; Phát triển đô thị có định hướng trên cơ sở phát triển nông thôn bền vững, xây dựng nhiều thương hiệu đặc sản nông nghiệp của thành phố; Tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp quan trọng vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, hiện đại; Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, các ngành dịch vụ, du lịch, tài chính - tiền tệ và kinh tế đối ngoại ...để từng bước trở thành trung tâm dịch vụ lớn của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Do đó việc phát triển và mở rộng tín dụng & dịch vụ của các NHTM trên địa bàn TP.Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay là phải xoay quanh định hướng phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa của thành phố, chú trọng đầu tư vào lãnh vực nông thủy sản, chế biến lương thực thực phẩm, tập trung cho vay các dự án có qui mô vừa Trang 41 và nhỏ hoạt động trong lãnh vực công nghiệp nhẹ, giày da, may mặc, thủy sản, chế biến nông sản …tăng cường huy động vốn, ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển dịch vụ Ngân hàng từng bước nâng cao sức cạnh tranh cho các NHTM TP.Cần Thơ. 3.2/ Các giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng: 3.2.1/ Giải pháp tăng trưởng nguồn vốn huy động để mở rộng tín dụng: * Giải pháp về lãi suất: Lãi suất là công cụ quan trọng để ngân hàng huy động vốn hiện có trong các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác...Kinh nghiệm của các nước thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế, mà trước hết là huy động vốn bằng công cụ lãi suất chỉ phát huy được hiệu lực của nó đối với việc huy động vốn trong điều kiện tiền tệ ổn định, giá cả ít biến động hay nói cách khác là lạm phát ở mức vừa phải và không biến động thất thường. Hiện nay, huy động vốn ở các Ngân hàng thương mại đang gặp rất nhiều khó khăn, sự tăng giá ở hầu hết các mặt hàng khiến cho đồng Việt Nam bị mất giá, lãi suất tiền gửi lại đồng loạt giảm so với năm 2003 (chênh lệch từ 0,05% - 0,1%) nên dẫn đến tình trạng người dân thi nhau rút tiền gửi để mua ngoại tệ và vàng tích lũy. Bên cạnh đó, lãi suất tín phiếu, trái phiếu kho bạc, công trái giáo dục lại ổn định và cao hơn lãi suất tiền gửi Ngân hàng. Hoạt động trong cơ chế thị trường, việc cạnh tranh khuyến mại là cần thiết nhưng chưa đủ, phải chiêu thị với thế mạnh, mà trước hết là toàn ngành ngân hàng phải thực sự lành mạnh, hoạt động bình ổn. Chữ tín của ngân hàng rất quan trọng, tạo được lòng tin của nhân dân là điều kiện bảo hiểm vốn tiền gửi rất hữu hiệu. Do đó, cần thiết sử dụng một chính sách lãi suất hợp lý để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội, vừa kích thích các đơn vị tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Để cho công cụ lãi suất phát huy được vai trò tác dụng của mình trong cơ chế thị trường, chính sách lãi suất cần thiết tiếp tục xử lý theo hướng sau: - Hoạch định chính sách lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường dựa trên mối quan hệ cung cầu về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn bao gồm cả hệ số trượt giá, đảm bảo ngân hàng thương mại kinh doanh có lãi. - Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến, nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp thời và linh hoạt. Trang 42 - Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến để khuyến khích tiết kiệm, tránh tích lũy vàng và ngoại tệ. * Giải pháp về cung ứng nhiều dịch vụ, địa điểm giao dịch thuận tiện: Để khuyến khích người dân gửi tiền, các Ngân hàng phải đưa ra các dịch vụ tốt, thuận lợi, đa dạng, từ vấn đề nhỏ nhất như: Chỗ để xe thuận lợi, bố trí quầy giao dịch, nước uống…đến những vấn đề thiết yếu hơn như: Hệ thống chi trả tự động, các dịch vụ thông tin, chuyển tiền theo yêu cầu sao cho nhanh nhất, chính xác, những lời tư vấn có hiệu quả, thời gian làm việc cả ngày và đêm, thực hiện chính sách chăm sóc khách hàng vào những ngày kỷ niệm đặc biệt như: lễ, tết, ngày sinh nhật đối với những khách hàng giao dịch thường xuyên. Các Ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt thực chất cũng làm giảm các chi phí khác cho người gửi tiền. Nó có tác động trực tiếp đến lợi ích nên có tác dụng khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng. Bên cạnh cung ứng nhiều dịch vụ tiện ích, các Ngân hàng cần có địa điểm giao dịch ở những nơi thuận lợi, đông dân cư, vùng dân cư có thu nhập cao để người gửi tiền đỡ tốn kém cả bằng tiền và thời gian cho việc đi lại giao dịch. Địa điểm giao dịch có thể là trụ sở, chi nhánh, phòng giao dịch hoặc bàn tiết kiệm đặt ở các tụ điểm dân cư, khu tập thể quy mô lớn, hay các nhà máy có đông công nhân… 3.2.2/ Mở rộng tín dụng trong lĩnh vực cho vay nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản: TP.Cần Thơ với hơn 70% dân số sống dựa vào nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, các hoạt động đầu tư để sản xuất và tiêu thụ : lúa, bông vải, mía nguyên liệu, sữa bò tươi, thủy hải sản .... sẽ là đối tượng cho vay chủ yếu của các NHTM, khách hàng vay truyền thống với số lượng lớn vẫn là người nông dân và các doanh nghiệp thu mua nông sản. Tuy nhiên trong thời gian qua người nông dân phải tự lo nguyên liệu đầu vào và đầu ra, người dân chỉ biết sản xuất những hàng hóa mà mình có chưa biết làm ra những sản phẩm mà thị trường cần nên dẫn đến tình trạng khi trúng mùa thì giá nông sản hàng hóa rớt giá, nếu thiên tai xảy ra coi như mất trắng, Ngân hàng phải giãn nợ vay, doanh nghiệp không có hàng hóa thu mua để thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh chế biến và xuất khẩu, từ đó làm cho nền sản xuất hàng hóa chậm phát triển . Có thể nói, việc sản xuất hàng hóa nông sản phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên sẽ làm cho ngân hàng, doanh nghiệp và nông dân gặp rất nhiều rủi ro. Để khắc phục ngày 24/06/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 80/2002/QĐ-TTg “Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng”, người dân đã có thể dùng hợp đồng bao tiêu sản phẩm để vay vốn ngân hàng qua sự bảo lãnh của doanh nghiệp theo sơ đồ sau : Trang 43 2 1 4 3 (1) Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận cho vay. (2) Ngân hàng cấp tín dụng Ng©n hμng Tỉ chøc bao Tiªu Kh¸ch hμng (3) Khách hàng giao sản phẩm cho tổ chức bao tiêu (4) Tổ chức bao tiêu trả nợ ngân hàng . Nhưng trên thực tế việc thực hiện hợp đồng bao tiêu sản phẩm vẫn còn một số khó khăn như : - Doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm chưa có đầu ra ổn định, công nghệ bảo quản sau thu hoạch chưa thực sự đa dạng, việc thu mua nông sản hàng hóa còn chậm và chưa đồng bộ, người dân chậm nhận được tiền từ việc bán sản phẩm để trả nợ cho ngân hàng . - Việc thu nợ của các NHTM phụ thuộc rất nhiều vào tổ chức bao tiêu, khách hàng vay vốn ngân hàng phải trả nợ qua tổ chức bao tiêu nên làm chậm thời gian thu hồi nợ của Ngân hàng . Vì vậy, để giúp cho người nông dân và doanh nghiệp thu mua nông, thủy sản tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng một cách dễ dàng, Ngân hàng có điều kiện tham gia vào quá trình sản xuất -lưu thông- phân phối hàng hóa và mở rộng dư nợ tín dụng, các NHTM nên kiến nghị với Chính phủ cho nông dân được trả nợ ngân hàng bằng nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng với doanh nghiệp đã bao tiêu sản phẩm. Khi đó người nông dân chỉ cần xuất trình phiếu mua hàng hoặc phiếu nhập kho của doanh nghiệp (Ngân hàng sẽ giám sát hoạt động này tại doanh nghiệp), ngân hàng sẽ ghi giảm nợ cho nông dân đồng thời ghi tăng nợ vay cho doanh nghiệp. Nếu làm được điều này NHTM sẽ có lợi là ngân hàng sẽ thu được nợ dễ dàng và đúng hạn, doanh nghiệp có nông sản hàng hóa để sản xuất kinh doanh, chế biến xuất khẩu, nông dân không phải ôm tiền đến ngân hàng để xếp hàng trả nợ vay, doanh nghiệp không phải ra ngân hàng để vay tiền và ôm tiền mặt đi mua hàng, dư nợ vay tín dụng tại các NHTM trong lãnh vực cho vay nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản sẽ tăng lên. 3.2.3/ Mở rộng tín dụng tiêu dùng và cho vay các cơ quan hành chánh sự nghiệp có thu : Cho vay tiêu dùng là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình . Đây là một thị trường rộng lớn để mở rộng tín dụng Trang 44 tuy khối lượng công việc nhiều và chi phí cao nhưng tín dụng tiêu dùng cũng đem lại những lợi ích quan trọng cho ngân hàng như : - Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gởi cho ngân hàng . - Tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng . Hiện nay nghiệp vụ này mới chỉ được các NHTM cổ phần chú ý qua hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp, trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng. Các NHTM quốc doanh chỉ mới bắt đầu thực hiện nghiệp vụ này qua việc cho vay tập thể, thế chấp bằng qũy lương thông qua người đại diện và người vay phải là cán bộ công nhân viên cơ quan nhà nước, nên dư nợ trong lãnh vực này chưa phát triển. Vì vậy, để mở rộng tín dụng trong nghiệp vụ này các NHTM nên áp dụng hình thức cho vay trực tiếp , tức là ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này . Hơn nữa, các cơ quan hành chánh sự nghiệp có thu trên địa bàn thành phố Cần Thơ là rất nhiều nhưng chưa được ngân hàng tiếp cận để cho vay. Ngân hàng có thể căn cứ vào kế hoạch thu hàng năm của các cơ quan đã được cấp chủ quản phê duyệt để cho vay trước 1 phần bằng hình thức tín chấp, khi có nguồn thu sẽ hoàn trả cho ngân hàng . Đây là một thị trường tiềm năng để các NHTM mở rộng tín dụng an toàn đem lại hiệu qủa cao . 3.2.4/ Mở rộng nghiệp vụ tín dụng cho vay thế chấp : Trong quan hệ tín dụng, các biện pháp thế chấp cầm cố và bảo lãnh hiện vẫn còn sử dụng khá phổ biến ở TP.Cần Thơ, các doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường kinh doanh năng động, cạnh tranh rất khốc liệt, việc thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vẫn còn được xem là một biện pháp tốt để đảm bảo lòng tin và khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng. Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP và nghị định sửa đổi số 85/2001/NĐ-CP của Chính phủ về thế chấp tài sản đảm bảo nợ vay. Ngân hàng và doanh nghiệp có thể tự lựa chọn hình thức đảm bảo nợ vay như thế chấp, cầm cố hoặc tín chấp ...khi tham gia vay vốn tại ngân hàng và việc định giá tài sản đảm bảo là do sự thỏa thuận giữa người vay với ngân hàng. Tuy nhiên hình thức tín chấp thường chỉ được áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì mức độ rủi ro cao nên đa số các NHTM trên địa bàn thành phố Cần Thơ đều buộc phải có tài sản thế chấp, vô hình chung tài sản thế chấp trở thành vật cản rất lớn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi muốn quan hệ tín dụng với ngân hàng . Trang 45 Hiện nay biện pháp đảm bảo nợ vay chủ yếu của các NHTM chỉ là cầm cố và thế chấp tài sản . Vì vậy để mở rộng tín dụng nhưng vẫn bảo đảm được mức độ an toàn thu hồi nợ, ngoài hình thức cầm cố và thế chấp tài sản các NHTM nên áp dụng thêm hình thức đảm bảo nợ vay bằng cầm cố hàng hóa, cầm cố chứng khoán, bảo đảm bằng tiền gởi, bảo đảm bằng vàng, bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu và bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Nếu áp dụng thêm được các hình thức đảm bảo này thì không những tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với ngân hàng mà ngân hàng cũng có cơ hội để mở rộng tín dụng. 3.3/ Các giải pháp mở rộng dịch vụ: 3.3.1/ Giải pháp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt : - Cần kiên trì, tập trung, phổ biến, hướng dẫn các đơn vị mở tài khoản sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Có chính sách khuyến khích, tặng thưởng cho các đơn vị có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. - Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước về các nguồn thu, nguồn chi như cơ quan thuế, thuế thu nhập, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế trước bạ và các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ như: điện, nước, bưu điện, viễn thông….Có những giải pháp cụ thể trong việc khuyến khích thanh toán bằng chuyển khoản, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt của các đơn vị, cá nhân có quan hệ và có tài khoản tại Ngân hàng. 3.3.2/ Giải pháp về nâng cấp hệ thống ATM và mở rộng khách hàng sử dụng ATM trên địa bàn: - Các NHTM chưa được trang bị ATM cần sớm trang bị hệ thống này để đưa vào sử dụng, nhanh chóng hoà mạng với 2 hệ thống BankNet và hệ thống liên minh thẻ của Ngân hàng Ngoại Thương tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng có thể sử dụng thẻ tại bất cứ thành viên nào thuộc hệ thống của mình trên toàn địa bàn. - Các NHTM cần tiếp tục đa dạng hoá các chức năng khai thác thông qua hệ thống máy ATM như chi trả tiền điện, điện thoại, nước và mua bảo hiểm, đồng thời đa dạng các loại tiền tệ, tạo nhiều tiện ích cho khách hàng. - Nhanh chóng tiếp cận, phối hợp cùng các cơ quan cung cấp điện, nước, gas, viễn thông…có chính sách khuyến khích khách hàng thanh toán chi trả các loại tiền dịch vụ này bằng chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng, tạo điều kiện cho các khách hàng cá nhân sử dụng thẻ ATM. - Các NHTM sớm liên kết với các trường đại học, trung học chuyên nghiệp có chính sách hỗ trợ, tuyên truyền cho sinh viên mở tài khoản tại các Ngân hàng và sử dụng thẻ vừa đảm bảo an toàn vừa tiết kiệm chi phí phục vụ sinh hoạt cho sinh viên Trang 46 các trường, khuyến khích sinh viên tiếp cận dịch vụ ngân hàng cũng như làm chủ tài khoản của mình ngay từ khi vào trường đại học. 3.3.3/ Đa dạng thêm các loại hình dịch vụ như: thanh toán hộ tiêu dùng, dịch vụ phát hành thẻ bảo chi nội - ngoại tệ cho các Ngân hàng thương mại: Thanh toán hộ tiêu dùng là dịch vụ mà Ngân hàng đứng ra thay mặt cho chủ tài khoản thực hiện thanh toán các khoản chi tiêu của chủ tài khoản khi có giấy báo Nợ gửi đến ngân hàng (có chữ ký chấp nhận của chủ tài khoản). Đây là dịch vụ có nhiều tiềm năng cần được triệt để khai thác, bởi vì hiện nay các khoản chi phí của đa số người dân thành phố như: tiền điện, nước, điện thoại và các loại chi phí khác chiếm một khoản lớn trong tổng số tiền thu nhập của mỗi cá nhân gia đình. Dịch vụ phát hành thẻ bảo chi nội – ngoại tệ bằng nguồn vốn tự có của khách hàng, có nhiều mệnh giá khác nhau với nhiều hình thức ưu đãi, thuận tiện cho khách hàng. Đây là dịch vụ Ngân hàng thông dụng ở các nước phát triển và một số nước đang phát triển. Thẻ bảo chi, về bản chất thì gần giống như séc bảo chi, chỉ khác ở chỗ là cách thức sử dụng có tính hiện đại hơn vì được thông qua hệ thống mạng máy móc, thiết bị. Loại thẻ này có tính an toàn cao hơn các loại thẻ tín dụng khác, vì Ngân hàng chỉ phát hành thẻ dựa trên số dư tiền gửi thanh toán của khách hàng. 3.3.4/ Nhanh chóng trang bị các dịch vụ Ngân hàng điện tử hiện đại cho các NHTM như: Internet banking, Mobi banking, Home banking… Các NHTM Việt Nam cần sớm tiếp cận với các nhà cung cấp các tiện ích Ngân hàng điện tử, tuyển chọn nhân viên có trình độ vi tính cao vào làm việc tại các bộ phận kỹ thuật, nhanh chóng hoàn thành giai đoạn nghiên cứu, thí điểm các loại hình dịch vụ này để sớm trang bị cho các chi nhánh NHTM trên địa bàn đưa vào sử dụng, thoả mãn nhu cầu khách hàng, phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, đảm bảo đủ sức cạnh tranh về dịch vụ Ngân hàng với các Ngân hàng nước ngoài khi hội nhập. Việc trang bị các tiện ích hiện đại này sẽ giúp các Ngân hàng khai thác triệt để mạng thông tin, nâng cấp và mở rộng không gian giao dịch của Ngân hàng, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc xử lý các nghiệp vụ thông qua mạng từ Ngân hàng đến doanh nghiệp. 3.4/ Các kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực mở rộng tín dụng và dịch vụ ngân hàng: 3.4.1/ Kiến nghị đối với Chính phủ: 3.4.1.1/ Ban hành luật Séc, đẩy mạnh hình thức thanh toán không dùng tiền mặt Thể thức thanh toán Séc là một trong những thể thức thanh toán không dùng tiền mặt quan trọng nhưng thực tế tại Cần Thơ, thể thức này chỉ chiếm tỷ trọng dưới 1% trong tổng các phương thức không dùng tiền mặt . Mặc dù thể thức thanh toán bằng Séc được qui định tại nghị định 30/CP và thông tư 07/TT điều chỉnh những vẫn còn một số vướng mắc như : Trang 47 + Phạm vi thanh toán hẹp, không cho phép thanh toán khác hệ thống, ngoài địa bàn thành phố. + Thời gian hiệu lực của tờ Séc chỉ có 15 ngày rất ngắn so với thông lệ ở các nước là 6 tháng hoặc 1 năm ... Vì vậy Chính phủ cần xem xét điều chỉnh các nội dung về thanh toán Séc, trên cơ sở đó ban hành luật Séc để tạo tính chấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43098.pdf
Tài liệu liên quan