Luận văn Tác động của gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến nền nông nghiệp Việt Nam

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một thực tế khách quan, một xu thế tất yếu cuốn hút các quốc gia. Việt Nam đã và đang triển khai nhiều hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và đã thu được nhiều kết quả.

Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhâp kinh tế quốc tế, Việt nam coi việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một mục tiêu quan trọng. Việc tham gia các hiệp định, các hiệp ước quốc tế về thương mại, về kinh tế trong WTO sẽ tạo nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Nhưng việc tham gia và theo đó là thực hiện các cam kết của WTO sẽ là một quá trình đầy gay go, thách thức trên tất cả những lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Việt Nam về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp với 67% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Khoảng 1/4 tổng GDP và khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu là từ nông nghiệp, do đó ngành nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Gia nhập WTO nền nông nghiệp Việt Nam có thể chịu sự tác động trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực là mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, phân bổ tốt hơn các nguồn lực quốc gia đến các ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất, tăng cường học hỏi công nghệ mới từ việc trao đổi ngày càng gia tăng với phần còn lại của thế giới, tăng cường tính linh hoạt trong thương mại quốc tế để đối mặt với những cú sốc do thiên tai Mặt khác, đặt ngành nông nghiệp trước khả năng biến động lớn do ảnh hưởng của thị trường thế giới bởi xu hướng tự do hoá thương mại, đặt các doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh lớn, mặt hàng có sức cạnh tranh yếu thì nguy cơ phá sản là không thể tránh khỏi, điều đó dẫn đến nhiều nông dân bị mất việc làm, làm sâu sắc thêm những bất bình đẳng về thu nhập trong nông nghiệp, nông thôn và giữa thành thị với nông thôn.

Xuất phát từ những vấn đề bức xúc nêu trên, nhất là khi Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa bước vào WTO, tôi chọn vấn đề: “Tỏc động của gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến nền nông nghiệp Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

 

doc99 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tác động của gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến nền nông nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một thực tế khách quan, một xu thế tất yếu cuốn hút các quốc gia. Việt Nam đã và đang triển khai nhiều hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và đã thu được nhiều kết quả. Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhâp kinh tế quốc tế, Việt nam coi việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một mục tiêu quan trọng. Việc tham gia các hiệp định, các hiệp ước quốc tế về thương mại, về kinh tế trong WTO sẽ tạo nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Nhưng việc tham gia và theo đó là thực hiện các cam kết của WTO sẽ là một quá trình đầy gay go, thách thức trên tất cả những lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Việt Nam về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp với 67% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Khoảng 1/4 tổng GDP và khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu là từ nông nghiệp, do đó ngành nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Gia nhập WTO nền nông nghiệp Việt Nam có thể chịu sự tác động trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực là mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, phân bổ tốt hơn các nguồn lực quốc gia đến các ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất, tăng cường học hỏi công nghệ mới từ việc trao đổi ngày càng gia tăng với phần còn lại của thế giới, tăng cường tính linh hoạt trong thương mại quốc tế để đối mặt với những cú sốc do thiên tai… Mặt khác, đặt ngành nông nghiệp trước khả năng biến động lớn do ảnh hưởng của thị trường thế giới bởi xu hướng tự do hoá thương mại, đặt các doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh lớn, mặt hàng có sức cạnh tranh yếu thì nguy cơ phá sản là không thể tránh khỏi, điều đó dẫn đến nhiều nông dân bị mất việc làm, làm sâu sắc thêm những bất bình đẳng về thu nhập trong nông nghiệp, nông thôn và giữa thành thị với nông thôn. Xuất phát từ những vấn đề bức xúc nêu trên, nhất là khi Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa bước vào WTO, tôi chọn vấn đề: “Tỏc động của gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến nền nụng nghiệp Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài * Xoay quanh vấn đề Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau: - Một số công trình nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí đã tập trung phân tích diễn biến tình hình Việt Nam đàm phán gia nhập WTO và từ đó đưa ra các giải pháp đẩy nhanh việc gia nhập WTO; nghiên cứu nội dung của các hiệp định của WTO, từ đó chỉ ra các cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển, cũng như Việt Nam khi gia nhập WTO. - Một số công trình, bài báo cũng đã nghiên cứu và làm rõ sự cần thiết Việt Nam phải gia nhập WTO. Những điểm nêu trên có thế tìm thấy trong các tác phẩm: +Việt Nam gia nhập WTO: “Tác động tới nền kinh tế Đồng Nai và các giải pháp để thích ứng với quá trình hội nhập”, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà nôi 2005. + “Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với nền kinh tế toàn cầu”, của Nguyễn Văn Thanh, Tạp chí Cộng sản. + “Việt Nam con đường tới WTO”, của Vũ Xuân Trường, Báo Hà Nội mới. + “Nhiều lợi thế cũng như thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO”, Bích Hạnh- Báo Nhân dân ngày 19/2/2004. + “Một bước chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO”, Thu Hà-Báo Nhân dân ngày 20/2/2004. + “Trung Quốc gia nhập WTO thời cơ và thách thức”, Võ Đại Lược- Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội 2004. + “Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia- 2004. * Liên quan đến hội nhập WTO và tác động của nó đến nông nghiệp Việt Nam. Đã có một số công trình khoa học, bài báo đề cập đến các vấn đề nông nghiệp Việt Nam trong kinh tế toàn cầu và mối quan hệ giữa bảo hộ và tự do hoá thương mại nông sản, kinh nghiệm bảo hộ nông nghiệp trên thế giới, cái được và cái mất và tác động đối với nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. Các công trình liên quan đến vấn đề này: - “Làm gì cho nông thôn Việt Nam”, Phạm Đỗ Chí- Đặng Kim Sơn-Nguyễn Tiến Triển, Đồng chủ biên 2003. - “Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ” Bùi Xuân Lưu, Nhà xuất bản Thống kê- Hà nội 2004. - “WTO và ngành nông nghiệp Việt Nam”, kết quả nghiên cứu của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn do Australia tài trợ. - “Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn”, kết quả nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn do AU said tài trợ. - “Nông nghiệp và đám phán thương mại”, diễn đàn tài chính kinh tế-tài chính Việt-Pháp, Nhà xuất bản CTQG-2001. - “Các vòng đàm phán Urugoay về nông nghiệp và tác động thực tiễn của chúng”, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2-2002. - “Chính sách thương mại nông nghiệp trong quá trình Việt Nam gia nhập WTO” của Ths Chu Ngọc Sơn. - “Tác động của tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đối với nền kinh tế Việt Nam” của PGS.TS Tô Huy Rứa. Những công trình nghiên cứu, đề tài trên đã đề cập dưới các góc độ khác nhau về thời cơ, thách thức và tác động của gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam, trong đó có nền nông nghiệp Việt Nam song còn ít đề tài đi sâu phân tích, đánh giá toàn diện, cụ thể tác động của gia nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì thế đề tài “Tác động của gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam” vẫn cần được nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn góp phần dự báo những tác động chủ yếu đến nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. Từ đó nêu ra phương hướng và giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp Việt Nam nhằm phát huy những tác động tích cực và khắc phục hạn chế của hội nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: + Phân tích khái quát về WTO. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập WTO. + Phân tích những tác động chủ yếu của việc gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam. + Nêu ra một số giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những tác động của việc gia nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam trên góc độ những ảnh hưởng của điều chỉnh chính sách và hàng nông sản xuất khẩu. Nghiên cứu đối tượng này dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, nên luận văn chú trọng đến các vấn đề: xu hướng, các phương hướng và giải pháp thích hợp để phát triển nông nghiệp Việt Nam khi hội nhập vào WTO. Thời gian: từ năm 2000 đến nay (từ phiên họp thứ tư-của giai đoạn 3: Minh bạch hoá chính sách thương mại trong các cuộc đàm phán đa phương). 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia. 6. ý nghĩa của luận văn Luận văn hy vọng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về những tác động chủ yếu đối với nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO và đề xuất một số giải pháp thích ứng để phát triển nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề kinh tế phù hợp 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục thành 2 chương, 6 tiết. Chương 1 Tổ chức thương mại thế giới và kinh nghiệm của các nước trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập WTO 1.1. Khái quát về tổ chức thương mại thế giới (WTO) Từ tháng 6-1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của GATT-tiền thân của WTO. Ngày 1-1-1995, Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO. Từ đó đến nay, Việt Nam đã và đang tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến cuối tháng 5-2006 Việt Nam đã tiến hành 12 phiên đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán song phương với cả 28 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu đàm phán, vào ngày 31-5-2006 với đối tác cuối cùng là Mỹ. Như vậy, Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa gia nhập WTO. Mỗi tổ chức quốc tế đều có mục tiêu, nguyên tắc và nội dung hoạt động của mình. Một nước muốn trở thành thành viên của tổ chức đó phải cam kết tuân thủ các quy định của tổ chức và chứng tỏ khả năng của mình trong việc hoàn thành nghĩa vụ của thành viên trong tổ chức, cũng như hưởng các lợi ích do việc tham gia tổ chức mang lại. Vì thế, trong chương 1 này, cần thiết phải tìm hiểu sơ bộ về tổ chức thương mại thế giới (WTO), các hiệp định chính trong WTO, nhất là các hiệp định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, nhằm tạo cơ sở cho việc phân tích những tác động có thể của việc gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam ở chương 2. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ vòng đàm phán Urugoay (1986-1994) do thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, về thương mại nông sản, hàng dệt may (dỡ bỏ năm 2005) và cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của thương mại đa biên được mở rộng nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Ma-rốc), kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các thành viên GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. Theo đó WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên hiệp quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995. Cho đến nay tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã có 148 thành viên và tính đến tháng 12/2004 với khoảng 97% thương mại toàn thế giới. * Mục tiêu của WTO: Với tư cách là tổ chức thương mại toàn cầu, WTO có những mục tiêu cơ bản như sau: - Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ, nâng cao việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường, thông qua việc tạo ra một tập hợp các quy tắc và nguyên tắc cho thương mại quốc tế, bảo đảm một môi trường minh bạch, dễ dự báo trong thương mại quốc tế. WTO vẫn đảm đương trách nhiệm của GATT về thúc đẩy đàm phán đa phương nhằm tự do hoá thương mại, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên. - Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các Công ước quốc tế: bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. - Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng. * Chức năng chính: WTO thực hiện các chức năng cơ bản sau: - Thống nhất việc quản lý thực hiện các Hiệp định và thỏa thuận thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ. - Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO. - Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các biện pháp thương mại đa phương và nhiều bên. - Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy định của WTO, Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên. - Thực hiện hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng Thương mại - nhóm họp ít nhất hai năm một lần. Giữa hai nhiệm kỳ Hội nghị, Đại hội đồng (Bao gồm Đại diện có thẩm quyền của tất cả các thành viên) có chức năng thường trực và báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng, đồng thời Đại hội đồng đóng vai trò là một cơ quan giải quyết tranh chấp và cơ quan rà soát chính sách của WTO. Dưới Đại hội đồng là Hội đồng thương mại về hàng hoá, Hội đồng thương mại về dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại về quyền sở hữu trí tuệ. Các Hội đồng trên chịu trách nhiệm điều hành việc thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương mại tương ứng. Tham gia các Hội đồng là đại diện của các thành viên. Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự đồng thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. WTO chứa đựng một hệ thống các quy định vô cùng phức tạp và cụ thể cho các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, tất cả những quy định đó đều dựa trên 5 nguyên tắc cơ bản [1, tr.225]. - Nguyên tắc thương mại không có sự phân biệt đối xử: Nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên phải dành cho nhau Đãi ngộ Tối huệ quốc (MNF) (tức là không phân biệt đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ của các nước thành viên khác nhau) và Đãi ngộ Quốc gia (NT) (yêu cầu mỗi nước thành viên không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ trong nước và nhập khẩu). - Nguyên tắc thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán: Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thỏa thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. - Nguyên tắc dễ dự báo, dự đoán: Các nhà đầu tư cũng như Chính phủ nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan khác sẽ không bị thay đổi và tăng một cách tùy tiện. Cam kết về thuế quan và các biện pháp khác bị ràng buộc về mặt pháp lý. - Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: Hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. - Nguyên tắc dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi: Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển có một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay có thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách cho phù hợp. 1.2. Các hiệp định của WTO liên quan đến nông nghiệp Các hiệp định của WTO điều chỉnh các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Chúng đề ra những nguyên tắc về tự do hoá và những ngoại lệ được phép áp dụng; nêu lại cam kết của từng nước về giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác, về mở cửa và duy trì mở cửa thị trường dịch vụ; quy định thủ tục giải quyết tranh chấp; quy định các nước đang phát triển phải được đối xử đặc biệt, buộc các chính phủ phải thông báo cho WTO biết những luật lệ hiện hành và các biện pháp được áp dụng trong nước song song với các báo cáo định kỳ của Ban thư ký về chính sách thương mại của các nước. Các hiệp định này thường được gọi là các luật lệ thương mại của WTO và WTO thường được miêu tả như là một hệ thống hoạt động dựa trên các luật lệ. Để điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế, WTO có 16 hiệp định chính như: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994); Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật trong thương mại (TBTs); Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch (SPS); Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu (ILP); Hiệp định về Quy tắc xuất xứ (ROO); Hiệp định về Kiểm tra trước khi giao hàng (PSI); Hiệp định Trị giá tính thuế hải quan (ACV); Hiệp định về các Biện pháp tự vệ (ASG); Hiệp định về Trợ cấp (SCM) và Phá giá (ADP), Hiệp định về Nông nghiệp (AOA); Hiệp định về Thương mại hàng dệt may và may mặc (ATC); Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS); Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) và thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU)… [1, tr. 226]. Tất cả các thành viên WTO đều phải tham gia vào các hiệp định nói trên, quy định này gọi là sự chấp thuận cả gói. Bên cạnh đó WTO vẫn duy trì 2 hiệp định nhiều bên, các thành viên WTO có thể tham gia hoặc không tham gia, đó là: Hiệp định về buôn bán máy bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm của Chính phủ. Còn 2 Hiệp định nhiều bên khác là Hiệp định quốc tế về các sản phẩm sữa; Hiệp định quốc tế về thịt bò thì cuối năm 1997, WTO đã chấm dứt và đưa những nội dung của chúng vào phạm vi điều chỉnh của các Hiệp định Nông nghiệp và Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch. Trong khuôn khổ của WTO có một số hiệp định cũng như quy định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1947, GATT 1994), Hiệp định nông nghiệp (AoA), Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS), Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBTs), Hiệp định về thủ tục giấy phép xuất nhập khẩu (ILP), Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)… 1.2.1. Hiệp định nông nghiệp (AOA) Hình thành “một hệ thống thương mại nông nghiệp định hướng thị trường bình đẳng và công bằng” thông qua yêu cầu các quốc gia thực hiện các nguyên tắc mới giám sát: - Việc sử dụng các đường biên để kiểm soát nhập khẩu. - Sử dụng trợ cấp xuất khẩu. - Các trợ cấp khác Chính phủ cung cấp để hỗ trợ giá của sản phẩm nông nghiệp hay thu nhập của nhân dân. * Tiếp cận thị trường: Theo điều 4 của Hiệp định này các nước trước đây áp dụng các biện pháp phi thuế quan (ví dụ như hạn chế định lượng, giấy phép không tự động và thuế biến đổi) đều bị yêu cầu bãi bỏ chúng, thay thế bằng thuế nhập khẩu bị ràng buộc ở mức bảo hộ tương đương hoặc thấp hơn. Việc chuyển từ các biện pháp phi thuế sang thuế được gọi là “thuế hóa”. Các quốc gia thành viên đồng ý cắt giảm thuế nhập khẩu theo tỷ lệ cố định. Các nước phát triển và chuyển đổi phải giảm thuế 36% theo bình quân trong thời hạn 6 năm từ 1995 đến 2000, ít nhất là 15% đối với mỗi dòng thuế. Các nghĩa vụ tương tự đối với các nước đang phát triển là 24% trong vòng 10 năm từ 1995 đến 2004 và ít nhất 10% đối với mỗi sản phẩm. Tuy nhiên, các hàng rào phi thuế cũng không bị loại bỏ hoàn toàn. Các thành viên được phép sử dụng một số hạn chế phi thuế như các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật để bảo vệ con người và động vật khỏi các rủi ro từ thực phẩm nảy sinh từ việc sử dụng các chất kích thích, các chất gây ô nhiễm, độc tố hay các sinh vật gây bệnh và để bảo vệ động thực vật khỏi các sâu bệnh hay dịch bệnh có thể tác động đến sản xuất nông nghiệp. Ràng buộc mọi dòng thuế đối với nông sản cũng được tất cả các nước đồng ý (phát triển, đang phát triển, kém phát triển) để không tăng quá mức đã cam kết trong Biểu nhượng bộ của các nước. Các nước đang phát triển và kém phát triển được linh hoạt hơn khi ràng buộc các mức thuế tại thuế trần có thể cao hơn so với mức thuế áp dụng thực tế. * Hỗ trợ trong nước: Các cam kết cắt giảm mức hỗ trợ trong nước làm bóp méo thương mại được thể hiện ở mức Tổng các biện pháp hỗ trợ gộp hay “Các mức cam kết ràng buộc hàng năm và cuối cùng”. Mức tổng các biện pháp hỗ trợ gộp (“Tổng AMS”) là tổng các hỗ trợ trong nước được cung cấp để hỗ trợ các nhà sản xuất nông nghiệp. Mức này được tính toán là tổng hỗ trợ đối với các sản phẩm nông nghiệp, các biện pháp hỗ trợ không cụ thể và tất cả “các biện pháp tương đương” (một cách tính đối với các hỗ trợ gộp đối với các sản phẩm trong trường hợp không thể tính được một cách chi tiết). Hiệp định nông nghiệp cũng đặt ra mức tối đa đối với Tổng AMS mà mỗi quốc gia thành viên tính toán và báo cáo theo một phom sẵn có trong bản ACC/4 và phải cam kết giảm từ mức Tổng đó. - Hộp xanh lá cây: Bao gồm các trợ cấp không hoặc rất ít bóp méo thương mại và sản xuất nông sản và không có “tác động trợ giá đối với người sản xuất” và do đó được miễn trừ khỏi các cam kết cắt giảm. Theo như điều 2 của Hiệp định nông nghiệp, các trợ cấp thuộc hộp xanh có thể cung cấp cho các nhà sản xuất dưới dạng như sau: + Chi tiêu của Chính phủ đối với nghiên cứu nông nghiệp, kiểm soát sâu bệnh, kiểm tra và xếp loại các sản phẩm cụ thể, dịch vụ marketting và xúc tiến. + Sự tham gia tài chính của Chính phủ đối với các chương trình bảo hiểm thu nhập và mạng an sinh thu nhập. + Thanh toán bù trừ thiên tai. + Các trợ cấp điều chỉnh cơ cấu thông qua: . Các chương trình hồi hưu người sản xuất được thiết kế để hỗ trợ các cá nhân tham gia sản xuất nông nghiệp. . Chương trình ngừng sử dụng các nguồn tài nguyên như đất và các tài nguyên khác bao gồm động vật, thôi không tham gia sản xuất nông nghiệp. . Các trợ cấp đầu tư được thiết kế để hỗ trợ tái cơ cấu tài chính hay cơ cấu vật chất của các hoạt động của các nhà sản xuất. . Các thanh toán trong các chương trình môi trường. . Các thanh toán trong các chương trình hỗ trợ khu vực. Một số chương trình ở các nước đang phát triển cũng được miễn trừ khỏi các cam kết cắt giảm như hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho người nghèo và người có thu nhập thấp hay nông dân ở những vùng khó khăn, hỗ trợ nông dân chuyển đổi từ cây thuốc phiện sang các cây trồng khác. - Hộp xanh lơ: Bao gồm các thanh toán trực tiếp trong các chương trình giới hạn sản xuất dựa trên diện tích hay năng suất cố định hay số đầu gia súc. Hiệp định nông nghiệp cho phép các nước thành viên không phải tính đến các thanh toán thuộc các chương trình “giới hạn sản xuất” khi tính toán tổng mức AMS. - Hộp hổ phách: Đây là dạng trợ cấp được coi là bóp méo thương mại, bao gồm các trợ cấp trong nước mà các thành viên của WTO bị yêu cầu phải cắt giảm trong Hiệp định nông nghiệp trên cơ sở tính toán Tổng AMS. Các trợ cấp thuộc hộp hổ phách có thể dưới nhiều dạng nhưng tất cả đều thuộc dạng cung cấp trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp theo quy định của Chính phủ (nó không nhất thiết là Chính phủ phải trực tiếp chi trả từ nguồn ngân sách của mình). Chúng có thể bao gồm các quy định nhằm giữ vững hay tăng giá đầu ra hay giảm giá đầu vào đối với sản xuất hoặc cố định giá lưu kho hoặc phân phối sản phẩm. Chúng có thể bao gồm bất kỳ một thanh toán trực tiếp đến các nông dân trên cơ sở các quyết định sản xuất của họ (các thanh toán có liên quan đến sản xuất). Trên cơ sở tính toán tổng AMS của biện pháp trợ cấp thuộc Hộp hổ phách, các nước thành viên của WTO có các biện pháp trợ cấp nông nghiệp bóp méo thương mại có nghĩa vụ cắt giảm mức Tổng AMS. Các nước phát triển có nghĩa vụ cắt giảm 20% của Tổng AMS được tính toán trong giai đoạn 6 năm kể từ năm 1995 và các nước đang phát triển phải cắt giảm 13,3% trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, có bốn dạng ngoại lệ không phải tính đến khi tính toán Tổng mức AMS. Đó là các trợ cấp thuộc hộp “xanh lá cây” và “xanh lơ”, các mức trợ cấp đối với sản phẩm hay trợ cấp chung dưới mức tối thiểu và các ngoại lệ cụ thể đối với các nước đang phát triển. Mức tối thiểu: Đối với các nước đang phát triển, các chi trả trợ cấp bất kỳ dạng nào chưa đến 5% của giá trị sản xuất nông nghiệp và 5% của giá trị sản xuất của một sản phẩm nông nghiệp cơ bản thì sẽ không phải đưa vào khi tính toán mức AMS. Mức tối thiểu này đối với các nước đang phát triển là cao hơn 10%. Các nước đang phát triển cũng được cho phép, nhằm mục đích khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn, không đưa vào khi tính mức AMS và do vậy không phải đưa vào cam kết cắt giảm những trợ cấp dưới đây: + Trợ cấp đầu tư chung trong nông nghiệp. + Trợ cấp đầu vào nói chung đối với những người sản xuất thu nhập thấp hoặc ở những vùng khó khăn. + Trợ cấp để khuyến khích chuyển đổi từ cây thuốc phiện sang cây trồng khác. Trợ cấp xuất khẩu: Đây là dạng hỗ trợ được coi là các biện pháp bóp méo nhất đối với thương mại của các Chính phủ. Các trợ cấp này được sử dụng để hỗ trợ nông dân hay người sản xuất bán các sản phẩm của họ trên thị trường quốc tế. Chúng bao gồm: + Các trợ cấp trực tiếp của Chính phủ liên quan đến hoạt động xuất khẩu. + Việc bán hay thanh lý dự trữ nông sản phi thương mại của Chính phủ hoặc các cơ quan của Chính phủ với giá thấp hơn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTHs KT.doc
  • docMuc luc LVThs.doc
Tài liệu liên quan