Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của nhà nước và sự vận dụng trong đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân (từ thực tiễn tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân ở Nghệ An)

Sự ra đời và phát triển của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung và HĐND nói riêng gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, xây dựng Nhà nước Việt Nam thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải lấy dân làm gốc, nhân dân là người chủ đất nước, thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND. Người nhấn mạnh: "Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương" [42, tr.591].

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, việc khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước là hướng tiếp cận mới chưa được đề cập. Đặc biệt, hướng tiếp cận này lại càng có ý nghĩa khi chúng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức, hoạt động của HĐND để HĐND xứng đáng là thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ở địa phương.

Sắc lệnh tổ chức và hoạt động của HĐND và UBHC (số 63/SL ngày 22-11-1945) do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký là văn bản pháp luật đầu tiên đặt nền móng cho việc tổ chức, hoạt động của HĐND các cấp. Trải qua các giai đoạn lịch sử, thiết chế HĐND đã không ngừng được hoàn thiện, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nền trong thực tế hoạt động của HĐND ở nhiều địa phương vẫn còn mang tính hình thức chưa phát huy một cách có hiệu quả vị trí, vai trò của mình. Việc thực hiện bản chất dân chủ trong tổ chức, hoạt động của HĐND vẫn còn nhiều bất cập, chưa bảo đảm vận dụng một cách triệt để và thực tế các yêu cầu của tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước.

doc99 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của nhà nước và sự vận dụng trong đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân (từ thực tiễn tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân ở Nghệ An), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Sự ra đời và phát triển của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung và HĐND nói riêng gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, xây dựng Nhà nước Việt Nam thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải lấy dân làm gốc, nhân dân là người chủ đất nước, thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND. Người nhấn mạnh: "Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương" [42, tr.591]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, việc khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước là hướng tiếp cận mới chưa được đề cập. Đặc biệt, hướng tiếp cận này lại càng có ý nghĩa khi chúng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức, hoạt động của HĐND để HĐND xứng đáng là thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ở địa phương. Sắc lệnh tổ chức và hoạt động của HĐND và UBHC (số 63/SL ngày 22-11-1945) do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký là văn bản pháp luật đầu tiên đặt nền móng cho việc tổ chức, hoạt động của HĐND các cấp. Trải qua các giai đoạn lịch sử, thiết chế HĐND đã không ngừng được hoàn thiện, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nền trong thực tế hoạt động của HĐND ở nhiều địa phương vẫn còn mang tính hình thức chưa phát huy một cách có hiệu quả vị trí, vai trò của mình. Việc thực hiện bản chất dân chủ trong tổ chức, hoạt động của HĐND vẫn còn nhiều bất cập, chưa bảo đảm vận dụng một cách triệt để và thực tế các yêu cầu của tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước. Với những lý do đó, tác giả chọn vấn đề "Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của nhà nước và sự vận dụng trong đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân (từ thực tiễn tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân ở Nghệ An)" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Một số vấn đề liên quan đến đề tài như: Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đổi mới hệ thống chính trị; Cải cách bộ máy nhà nước; Nhà nước pháp quyền đã được các nhà nghiên cứu đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. - Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên), Nguyễn Xuân Tế - Bùi Ngọc Sơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. - Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Kỷ yếu Hội thảo - Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 1993. - Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Kỷ yếu Hội thảo - Các nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, Hà Nội, 1997. - Lê Minh Thông (chủ biên), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001. - Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, PTS Nguyễn Hữu Đức (đồng chủ biên), Cải cách hành chính địa phương lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. - Bùi Xuân Đức, Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện cải cách bộ máy nhà nước hiện nay, Nhà nước và pháp luật, 12/2003. - Nguyễn Thị Hồi, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở nước ta hiện nay, Luật học, 1/2004. - Nguyễn Hoàng Anh, Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay, Dân chủ pháp luật 3/2003. - Chu Đức Thành, Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan đại diện ở nước ta hiện nay, Luận án PTS, Học viện Chính trị quốc gia, 1996... Nhìn chung, những công trình trên đã đề cập tới tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước hoặc tổ chức và hoạt động của HĐND. Song, chưa có đề tài nào nghiên cứu về bản chất dân chủ của nhà nước và tổ chức, hoạt động của HĐND từ cách tiếp cận về bản chất dân chủ của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của nhà nước và việc thực hiện bản chất dân chủ trong tổ chức, hoạt động của HĐND. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước và khảo sát việc thực hiện bản chất dân chủ đó trong tổ chức, hoạt động của HĐND ở Nghệ An qua nhiệm kỳ 1999-2004 và 2004-2009 (tính đến tháng 7 năm 2005). 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ về phương diện lý luận tư tưởng của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước và việc thực hiện tư tưởng đó trong tổ chức, hoạt động của HĐND. Luận văn nêu ra một số giải pháp cơ bản về đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND nhằm phát huy vai trò là thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ở địa phương theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, bản chất dân chủ của Nhà nước và thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức, hoạt động của HĐND. - Phân tích thực trạng thực hiện dân chủ trong tổ chức, hoạt động của HĐND ở Nghệ An theo tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước. - Kiến nghị một số giải pháp nhằm không ngừng hoàn thiện tổ chức, hoạt động của HĐND trên cơ sở vận dụng một cách triệt để, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng và của Đảng ta về dân chủ, về việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và kế thừa quan niệm của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài này. - Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp kết hợp với phương pháp lôgíc, phương pháp thống kê, điều tra xã hội học. 6. Những điểm mới của luận văn - Luận văn góp phần khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước. - Qua phân tích thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước trong tổ chức, hoạt động của HĐND để khẳng định: HĐND - thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ở địa phương. - Từ thực trạng tổ chức, hoạt động của HĐND ở Nghệ An, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND bảo đảm phát huy bản chất dân chủ của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Thực hiện thành công mục đích và nhiệm vụ con người, đề tài sẽ góp phần nhận thức sâu hơn về HĐND từ một cách tiếp cận mới, từ đó có những quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND để nó thật sự trở thành một thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước tại địa phương theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về nhà nước, pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh và cho những ai quan tâm tới việc nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết. Chương 1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước 1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ và bản chất dân chủ của Nhà nước 1.1.1. Quan niệm về dân chủ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời tranh đấu đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc nô lệ thành dân tộc tự do, đưa người dân từ thân phận dân thuộc địa lên địa vị công dân làm chủ đất nước. Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống các luận điểm về dân chủ, từ quan niệm cho đến sự thể hiện của chúng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội..., cũng như phương thức hiện thực hóa chúng trong thực tiễn. Cho dù xét theo cách tiếp cận nào thì quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ vẫn nổi lên nội dung chính trị, khi Người luôn nhấn mạnh tới vấn đề nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. Từ góc độ này có thể khái quát quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ trên các nội dung sau: 1. Dân là chủ Từ các tác phẩm và đặc biệt là hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh có thể khẳng định rằng: Toàn bộ cuộc đời cách mạng sôi nổi, kiên định của Người là cả một quá trình đấu tranh quên mình để khẳng định trong thực tế đời sống một nguyên lý mà Người sớm nhận biết đó là: Nhân dân là người chủ xã hội. Nhận thức này đã thôi thúc Người dấn thân vào con đường cách mạng đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường cách mạng vô sản và trở thành người dẫn dắt cả dân tộc đi đến lý tưởng, mục tiêu cao cả là khẳng định trên thực tế địa vị là chủ của nhân dân đối với xã hội, đất nước. "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [39, tr.515]. 2. Dân làm chủ Nói "dân là chủ" là để khẳng định vị thế, tư cách xã hội của người dân. Tuy nhiên, cần có sự phân biệt giữa tư cách "là chủ" của dân với trạng thái "dân làm chủ" trên thực tế. Trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến sự khác biệt, đến khoảng cách giữa tư cách "dân là chủ" với trạng thái "dân làm chủ". bởi vì, trong lịch sử đã có nhiều cứ liệu chứng minh sự khác biệt về chất này đó là làm chủ trên thực tế và làm chủ trên danh nghĩa. Từ "dân là chủ" đến "dân làm chủ" là cả một bước nhảy vọt về chất đầy khó khăn. Hồ Chí Minh đã có lần nói đến một thực tế như là một điều trăn trở khôn nguôi: Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. ở đây, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu yêu cầu: Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ. Đây là nguyên tắc thuộc bản chất của Nhà nước và thực chất của chế độ xã hội mới: "Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" [37, tr.56]. Điều đáng chú ý ở đây là Hồ Chí Minh thường dùng từ "hưởng" để chỉ một nội dung rất cơ bản của quyền dân chủ. Khi nói đến việc "nhân dân hưởng hạnh phúc tự do, ăn no, mặc ấm..." thì "hưởng" ở đây hoàn toàn không bao hàm nghĩa như là một thứ ân huệ do được ban tặng. Trong suốt cuộc đời đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân, Người không ngừng giác ngộ cho dân chúng nhận thức về tư tưởng tự lực cánh sinh, "việc ta ta phải gắng lo...", "công nông mình cứu lấy mình", "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...". Đây chính là điểm mấu chốt để phân biệt "dân là chủ" và "dân làm chủ". Để "dân làm chủ" phải có những điều kiện, mà điều kiện tiên quyết có tính tiền đề là cuộc đấu tranh kiên dũng của nhân dân vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Giành được chính quyền, nhân dân giành lại được quyền là người chủ xã hội và cả quyền làm chủ xã hội, nhưng từ địa vị "là chủ" đến "quyền làm chủ" và làm chủ trên thực tế, cần phải có những điều kiện chặt chẽ kèm theo. Theo Hồ Chí Minh: Cách mạng giành chính quyền, làm chủ chính quyền, xây dựng xã hội là sự nghiệp của toàn dân, của chính nhân dân, không ai làm thay được. Nhưng để tham gia cuộc đấu tranh và trong quá trình đấu tranh đó nhân dân phải được giác ngộ, tập hợp, đoàn kết lại thành sức mạnh: "Có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [38, tr.169]. Để thực hiện quyền làm chủ nhân dân không những phải có quyền mà điều quan trọng là phải có khả năng, năng lực làm chủ. Và đây chính là mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói: "Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ" [43, tr.86]. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công mối quan tâm đó luôn ở bên Người trong cả chặng đường cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc "Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm" [39, tr.423] phải được xem như là một lời di chúc của Người. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công nhân dân ta đã làm chủ nước nhà và đã thực hành quyền làm chủ trên thực tế. Với tư cách là Người đứng đầu nhà nước Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết thực trạng làm chủ của dân, cho nên, Người thường xuyên chăm lo, bồi dưỡng cho sức mạnh làm chủ của nhân dân. Cho dù việc bồi dưỡng sức dân, bồi dưỡng năng lực làm chủ của dân có nhiều khó khăn, phức tạp nhưng đó không phải là một tình trạng không thể vượt qua. Có thể thấy, Hồ Chí Minh luôn tâm niệm về sự cần thiết bồi dưỡng sức dân thực hiện quyền làm chủ bằng cả một quốc sách được triển khai trên quy mô rộng lớn - công cuộc nâng cao dân trí, bồi dưỡng dân khí - những nhân tố hàng đầu hình thành "năng lực làm chủ" của nhân dân. Điều đặc sắc là ở chỗ, chủ trương, chính sách mà Hồ Chí Minh khởi xướng, phát động, cổ vũ, triển khai thực hiện mang tính hoàn thiện, đồng bộ, hệ thống và có tính chiến lược. Người thấy được ý nghĩa sâu xa căn bản của các cải cách xã hội đối với việc bồi dưỡng sức dân, xây dựng nền dân chủ "chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự" [40, tr.323]. Để phát huy quyền làm chủ và mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi Nhà nước phải có tầm nhìn bao quát, toàn diện và cụ thể. Có thể nêu những dẫn chứng tiêu biểu về cách làm này của Người: trong bài báo đăng trên Báo Cứu quốc phát động phong trào luyện tập thể dục trong những năm tháng đầu của chính quyền nhân dân. Người đã chỉ ra ý nghĩa chính trị, dân chủ to lớn của việc luyện tập thể dục vốn là một việc làm thông thường của mỗi người. Người xem đây là bổn phận của mỗi một người yêu nước "giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần phải có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ" [37, tr.24]; trong Chương trình hành động của Chính phủ lâm thời với 6 nhiệm vụ cấp bách được trình bày tại phiên họp Chính phủ ngày 3-9-1945, có 2 nhiệm vụ được Người đặt lên hàng đầu là chống nạn đói, nạn dốt trong 6 nhiệm vụ mà Người xem là cấp bách. Những nhiệm vụ này trực tiếp hoặc gián tiếp đều có tác dụng bồi dưỡng sức dân, nâng cao dân trí, nuôi dưỡng dân khí, khơi dậy ở mỗi người dân và ở tất cả các tầng lớp nhân dân ý thức, tinh thần làm chủ nước nhà, ý thức trách nhiệm trước vận mệnh của Tổ quốc vừa giành được quyền độc lập, tự do. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ... Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới... Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động, mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình [37, tr.36]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân làm chủ không chỉ để hưởng quyền dân chủ, dù đó là hưởng thành quả do chính mình tạo nên, mà còn để "biết dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm", điều đó thể hiện một thái độ chủ động, tích cực, xây dựng và sáng tạo từ phía người dân. Cách dùng từ "biết" đặt bên cạnh "hưởng quyền dân chủ" và "dùng quyền dân chủ" thể hiện một đòi hỏi cao về năng lực "làm chủ' đó là trình độ "dân trí" của nhân dân. Chỉ khi người dân hiểu được "quyền dân chủ" của mình thì khi đó họ mới "dám nói, dám làm". 3. Đi đến dân chủ thực sự Năm 1953, tại Hội nghị nông vận và dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài phát biểu quan trọng. Mở đầu bài nói này Người khẳng định: "Nước ta phải đi đến dân chủ thực sự" [40, tr.25]. Trong điều kiện cụ thể của năm 1953, Người nói đến "dân chủ thực sự" với nội dung thực hiện cách mạng ruộng đất, giải phóng nông dân khỏi ách áp bức, bóc lột của phong kiến địa chủ. Tuy nhiên, ý nghĩa nhận thức luận của khái niệm này lại có tính phổ biến. Không phải ngẫu nhiên, Hồ Chí Minh bổ sung tính từ "thực sự" bên cạnh khái niệm "dân chủ" khi đề cập đến trạng thái dân chủ trong xã hội Việt Nam, ở thời kỳ này. ở đây, Người nói đến "dân chủ thực sự" là muốn gián tiếp đối lập nó với một thứ dân chủ chung chung, hình thức, chưa thực sự hoặc không thực sự. Trong di sản tư tưởng mà Người để lại khái niệm dân chủ với các tính từ "thực sự", "thật sự", "đầy đủ"... được sử dụng nhiều lần, trong những hoàn cảnh khác nhau, thể hiện một quan niệm nhất quán về tính chất của sự việc, đồng thời thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Người về thực trạng của nền dân chủ trong xã hội. Trong tư duy của Hồ Chí Minh "thực sự", "thật sự" phải là một thuộc tính, một dấu hiệu không thể thiếu của nhà nước dân chủ và xã hội dân chủ. "Bao giờ ở nông thôn nông dân thật sự nắm chính quyền, nông dân được giải phóng thì mới là dân chủ thực sự" [40, tr.25]; "... phải thật sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng" [41, tr.322]; "phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt "quan cách mạng", "ra lệnh, ra oai" [43, tr.311]. Trong xã hội ta "thật sự dân chủ" trở thành một điều kiện, một thước đo thực chất của chính quyền. Do vậy, thực hành dân chủ có ý nghĩa, tác dụng là "chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn" [44, tr.249], qua đó, Người chỉ rõ tầm quan trọng của phát huy dân chủ. Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ đó là do tính chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên... Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến... Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan trọng với nhau [38, tr.244]. Tóm lại, với quan niệm: Dân chủ là "dân là chủ"; "dân làm chủ" cùng với "thực hành dân chủ" Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tới vị thế (là chủ) và hành động (làm chủ) của người dân - người chủ xã hội trong mối quan hệ với nhà nước của dân, do dân và vì dân. 1.1.2. Bản chất dân chủ của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh Nhà nước dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một Nhà nước dân chủ kiểu mới, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Trong tư tưởng của Người, bản chất dân chủ của Nhà nước kiểu mới có nội dung rất rộng, với một cơ chế thực hiện nghiêm ngặt và được cụ thể hóa trong các văn bản luật. Bước đầu nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi có thể khái quát thành những nội dung cơ bản sau: 1. Nhà nước dân chủ là tổ chức chính trị của nhân dân do nhân dân tổ chức ra Với quan điểm: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân làm chủ" [39, tr.515]. Hồ Chí Minh đã khẳng định việc nhân dân làm chủ nhà nước bằng con đường tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Hồ Chí Minh nhận thức tổng tuyển cử là một quyền chính trị mà nhân dân giành được qua đấu tranh cách mạng, là hình thức dân chủ, thể hiện năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là người công dân thì đều có quyền đi bầu cử… Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật sự là Chính phủ của nhân dân [37, tr.133]. Thông qua việc bầu Quốc hội và HĐND, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp, xây dựng nên một nhà nước hợp pháp theo ý nguyện của toàn dân. Theo Hồ Chí Minh: Chế độ tuyển cử chúng ta thực hiện dân chủ, đồng thời thực hiện sự đoàn kết toàn dân. Mọi người công dân từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử. Việc tuyển cử tiến hành theo nguyên tắc phổ thông bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín [42, tr.591]. Với vai trò là một nội dung làm chủ nhà nước của nhân dân, quyền bầu cử, ứng cử được ghi rõ trong Hiến pháp năm 1945, Hiến pháp năm 1959 do Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn thảo và ban hành. Trong Hiến pháp năm 1946, quyền này được thể hiện trong 3 điều Điều thứ 17. Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín. Điều thứ 18. Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và mất công quyền. Người ứng cử là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử. Điều thứ 19. Cách thức tuyển cử sẽ do luật định [53, tr.10-11]. Chế độ tuyển cử được quy định tại Điều 5 của Hiến pháp năm 1959: "Việc tuyển cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín" [53, tr.27]. Và tại Điều 23 quy định: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng tình trạng tài sản, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí hoặc những người bị tòa án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử. Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử [53, tr.31-32]. Bầu cử và ứng cử trực tiếp các đại biểu vào cơ quan quyền lực nhà nước ở các cấp là một đặc điểm nổi bật trong tổ chức nhà nước ở Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của bộ máy nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nguyên tắc Tổng tuyển cử đã được áp dụng nghiêm ngặt trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa I (6-1-1946). Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I mặc dầu được tiến hành trong một điều kiện hết sức khó khăn, nhưng đã được đánh giá là diễn ra đúng với tinh thần dân chủ mà Hồ Chí Minh đã khởi xướng. Điều đó được thể hiện ở chỗ: tỷ lệ cử tri đi bầu cử cao, bao gồm mọi thành phần, lứa tuổi, dân tộc (chiếm trên 90% danh sách cử tri), số lượng ứng cử viên nhiều, tạo ra khả năng lựa chọn cho người dân. Trong thực tế, "tại kỳ bầu cử Quốc hội khóa I, ở Hà Đông có 14 đại biểu Quốc hội thì có 97 vị ra ứng cử, ở Nam Định có 15 đại biểu thì có 70 vị ra ứng cử" [2, tr.49]. Về độ tuổi đại biểu, có thể thấy, Quốc hội khóa I là một Quốc hội có độ tuổi trung bình rất trẻ, thể hiện sức sống của một dân tộc đang vươn lên sau giành được tự do, độc lập: Đại biểu từ 18 đến 25 tuổi chiếm 7%; đại biểu từ 26 đến 40 tuổi chiếm 70%; đại biểu từ 41 đến 50 tuổi chiếm 18%; đại biểu từ 51 đến 70 tuổi chiếm 5%. Về yếu tố chính trị, Quốc hội khóa I có nhiều tổ chức chính trị, Đảng phái tham gia: Đảng viên mát - xít có 10 đại biểu; đảng viên xã hội 27 đại biểu; Đồng minh hội có 22 đại biểu; Việt Nam quốc dân Đảng có 26 đại biểu. Đại biểu độc lập gồm: Chống phát xít (tiến bộ) có 82 đại biểu và xu hướng quốc gia bảo thủ có 90 đại biểu [27, tr. 81-82, 102]. Về chất lượng đại biểu, Quốc hội khóa I đã phần nào đáp ứng được tư tưởng chỉ đạo có tính nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đã đề ra, đó là: "Có đủ chất xám trong bộ máy chính quyền thì mới tăng được sức bật, sức bền của khối xi măng cốt sắt đại đoàn kết toàn dân và xây dựng tổ quốc" [36, tr. 206]. Kết quả thành phần xã hội của đại biểu Quốc hội khóa I đã minh chứng cho điều đó: Tri thức chiếm 61%; công kỹ nghệ chiếm 6%; buôn bán chiếm 5%; thợ thuyền chiếm 6%; nông dân chiếm 22% [27, tr. 81- 82, 102]. Một đặc điểm không lặp lại của Quốc hội khóa I là: Vừa có bầu, lại có cử. Ngoài 333 đại biểu bầu được trong ngày 06/01/1946, trong điều kiện vận nước hiểm nghèo, ngàn cân treo sợi tóc, để đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh đề nghị giành 70 ghế Quốc hội cho Việt Nam quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) nhằm cô lập, phân hóa các lực lượng chống đối và lôi kéo cả những người trong bộ máy nhà nước cũ tham gia xây dựng đất nước. Đó là một quyết định có ý nghĩa vô cùng to lớn, thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu cao cả của cách mạng đó là, giữ vững độc lập tự do và từng bước đưa nước nhà bước vào thời kỳ quá độ lên XHCN. Thắng lợi to lớn của cuộc tổng tuyển cử chính là đã lựa chọn được các đại biểu xứng đáng của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Người đã biết “chọn mặt gửi vàng”, ủng hộ lãnh tụ chấp nhận những quyết sách đúng đắn, tưởng chừng như nghịch lý mà người ngoài cuộc không bao giờ hiểu được. Vấn đề này được Hồ Chí Minh lý giải ngắn gọn, sắc sảo nhưng lại đầy tính biện chứng, một loại biện chứng trong tư duy, phản ánh chính xác phép biện chứng chính trị và hiện thực cuộc sống nước ta lúc bấy giờ. Đoạn đối thoại sau đây của Hồ Chí Minh với các nhà báo thể hiện cách làm dân chủ vừa có tính nguyên tắc, vừa mềm dẻo của Hồ Chí Minh (nhà báo hỏi, Hồ Chí Minh trả lời). Hỏi: Tại sao có 70 ghế đặc cách trong Quốc hội? Trả lời: Vì anh em quốc dân đảng không ra ứng cử. Hỏi: Sao lại trái với nguyên tắc dân chủ vậy? Trả lời: Muốn đi tới dân chủ nhiều khi phải làm trái lại. Thí dụ, muốn đi tới hòa bình có khi phải chiến tranh. Hỏi: Cần làm trái dân chủ? Thế sao cụ không tự chỉ định cụ ra làm Chủ tịch Việt Nam, cụ còn ra ứng cử lôi thôi? Trả lời: Vì tôi k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
Tài liệu liên quan