L.Wittgenstein -nhà triết học người Áo, sau đổi sang quốc tịch Anh, là một trong 
những triết gia đã để lại dấu ấn riêng trong thế kỷ XX, người đặt nền móng cho 
“bước ngoặt ngôn ngữ” trong lịch sử triết học phương Tây hiện đại và giữ vai trò 
đặc biệt trong triết học phân tíchvà triết học ngôn ngữ. Mỗi chuyển biến trong tư 
tưởng của ông đều điển hình cho bước chuyển của chính các trào lưu triết học này. 
Điều đó làm cho Wittgenstein trở thành tấm gương độc nhất vô nhị trong việc tự 
vượt bỏ và phát triển tư tưởng của mình; và cũng lý giải –một phần –cho sức thu 
hút của ông đối với các nhà triết học trong trào lưu phân tích nói riêng, các nhà 
nghiêncứu hậu sinh nói chung.
L.Wittgenstein sinh ngày 26 tháng 4 năm 1889, tại Vienna, trong một gia đình 
thượng lưu người Áo –cha là người đứng đầu ngành công nghiệp luyện thép của 
đế quốc Áo -Hung, mẹ là một nghệ sĩ dương cầm có tiếng. Năm 1906, 
Wittgenstein bắt đầu học ngành kỹ sư cơ khí ở Berlin; năm 1908, đến Manchester 
tiếp tục theo học kỹ sư chuyên ngành hàng không. Tại đây, “ông bắt đầu chú ý đến 
những nguyên tắc triết học của toán học mà ngành học của ông phải dựa vào. Một 
người bạn cho ông mượn cuốn Những nguyên lý của toán họccủa B.Russell viết 
năm 1903 và tác phẩm này đã đưa ông vào sự nghiệp nghiên cứu triết học”(1).
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 -1951) -"Cha tinh thần" của triết học phân tích, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH NHÂN TRIẾT HỌC 
Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 - 1951) - "Cha 
tinh thần" của triết học phân tích 
L.Wittgenstein - nhà triết học người Áo, sau đổi sang quốc tịch Anh, là một trong 
những triết gia đã để lại dấu ấn riêng trong thế kỷ XX, người đặt nền móng cho 
“bước ngoặt ngôn ngữ” trong lịch sử triết học phương Tây hiện đại và giữ vai trò 
đặc biệt trong triết học phân tích và triết học ngôn ngữ. Mỗi chuyển biến trong tư 
tưởng của ông đều điển hình cho bước chuyển của chính các trào lưu triết học này. 
Điều đó làm cho Wittgenstein trở thành tấm gương độc nhất vô nhị trong việc tự 
vượt bỏ và phát triển tư tưởng của mình; và cũng lý giải – một phần – cho sức thu 
hút của ông đối với các nhà triết học trong trào lưu phân tích nói riêng, các nhà 
nghiên cứu hậu sinh nói chung. 
L.Wittgenstein sinh ngày 26 tháng 4 năm 1889, tại Vienna, trong một gia đình 
thượng lưu người Áo – cha là người đứng đầu ngành công nghiệp luyện thép của 
đế quốc Áo - Hung, mẹ là một nghệ sĩ dương cầm có tiếng. Năm 1906, 
Wittgenstein bắt đầu học ngành kỹ sư cơ khí ở Berlin; năm 1908, đến Manchester 
tiếp tục theo học kỹ sư chuyên ngành hàng không. Tại đây, “ông bắt đầu chú ý đến 
những nguyên tắc triết học của toán học mà ngành học của ông phải dựa vào. Một 
người bạn cho ông mượn cuốn Những nguyên lý của toán học của B.Russell viết 
năm 1903 và tác phẩm này đã đưa ông vào sự nghiệp nghiên cứu triết học”(1). Từ 
những mô tả trong cuốn sách về những tư tưởng triết học và lôgíc học của Gottlob 
Frege, Wittgenstein đã tìm đến Frege ở Jena (Đức). Theo lời khuyên của Frege, 
ông quay lại Anh, đến Đại học Cambridge để theo học Russell. Rất nhanh chóng, 
Russell – lúc đó đã là nhà triết học nổi tiếng – nhận ra và hết sức đề cao khả năng 
của Wittgenstein trong lĩnh vực triết học: “Tôi chắc chắn sẽ khuyến khích anh ta. 
Có lẽ anh ta sẽ làm nên những điều vĩ đại… Tôi rất mến anh ta và cảm thấy anh ta 
sẽ giải quyết được những vấn đề mà tôi đã quá già để giải quyết”(2). 
Trên thực tế, Wittgenstein không theo học triết học một cách có hệ thống. Thậm 
chí, ông còn cố gắng để không chịu tác động của những nhà triết học đi trước (tác 
phẩm lớn nhất của ông ở thời kỳ đầu - Chuyên luận lôgíc – triết học (Tractatus 
Logico-Philosophicus) đã thể hiện rất rõ điều ấy). Nhưng người ta vẫn có thể nói 
đến những tác gia - trong triết học và các lĩnh vực nhân văn khác - mà 
Wittgenstein đã tiếp nhận ảnh hưởng: Frege, Russell, Schopenhauer, Kierkegaard, 
Augustine, Dostoevsky, Tolstoi, Goethe, v.v.. 
Năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Wittgenstein gia nhập quân đội 
Áo – Hung. Năm 1918, ông bị quân Ý bắt làm tù binh. Trước đó, ông đã hoàn 
thành Tractatus và đưa đến nhà xuất bản nhưng bị từ chối. Trong thời gian bị 
giam, ông gửi tác phẩm cho Russell. Russell nhận thấy đây là một tác phẩm triết 
học đặc biệt quan trọng và dưới sự giúp đỡ của ông, Tractatus đã được xuất bản 
vào năm 1921, sau đó bản dịch tiếng Anh cũng được xuất bản vào năm 1922, với 
lời giới thiệu của Russell. 
Tractatus nhanh chóng trở nên nổi tiếng và cùng với nó là tên tuổi của tác giả. 
Được coi là tác phẩm đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng của triết học 
phân tích, Tractatus đã nêu ra và giải quyết hàng loạt vấn đề triết học quan trọng – 
vấn đề quan hệ giữa thế gian và tư tưởng, vấn đề ngôn ngữ, vấn đề bản chất của 
chính triết học, v.v.. Tác phẩm này của Wittgenstein được nhóm Vienna (với các 
nhà triết học M.Schlick, G.Bergmann, R.Carnap, K.Godel, F.Waismann…) coi 
như “kinh thánh” và bản thân ông thì được xem như một trong những triết gia lỗi 
lạc đương thời. 
Sau Tractatus, Wittgenstein từ bỏ triết học, vì tự cho rằng đã giải quyết triệt để tất 
cả các “vấn nạn triết học” trong tác phẩm của mình. Trong khoảng thời gian từ 
1919 (khi được trả tự do) đến 1929, ông không quay lại Cambridge mà về nước 
Áo, làm nhiều nghề khác nhau: giáo viên tiểu học, người làm vườn. Sau đó, ông 
tham gia thiết kế nhà cho người chị gái và trong thời gian ấy đã có những tác động 
khiến ông thay đổi: ông gặp gỡ với những nhà triết học thuộc nhóm Vienna. Khi 
tham gia tranh luận với họ, hứng thú triết học dần quay trở lại với Wittgenstein, 
đồng thời với việc ông cảm thấy nhiều quan điểm của mình trước đây chưa đầy đủ 
và việc giải quyết các “vấn nạn triết học” là chưa triệt để. 
Năm 1929, Wittgenstein trở lại Cambridge với ý định thực hiện tiếp tục công việc 
mà Tractatus chưa hoàn thành. Nhưng, rất nhanh sau đó, ông nhận thấy không 
phải những giải pháp của Tractatus chưa triệt để, mà bản thân nó là sai lầm. “Khi 
bắt đầu suy nghĩ lại về những vấn đề của Tractatus, Wittgenstein nhận ra mình 
buộc phải đánh đổ càng nhiều càng tốt những giả định triết học của nó. Chỉ trong 
vòng vài tháng [sau khi trở lại Cambridge], cái cấu trúc công phu của Tractatus đã 
sụp đổ như toà nhà bằng giấy. Nhưng sự sụp đổ đó không làm cho Wittgenstein 
rơi vào bi quan; ngược lại, dường như nó lại mở tung cửa cho những tư tưởng 
hoàn toàn mới. Có lẽ, không có giai đoạn nào trong đời Wittgenstein mà những ý 
tưởng đến với ông nhanh chóng và dồi dào đến thế. Khi từ bỏ những giả định 
trong Tractatus, ông thể nghiệm hàng loạt những đường lối triết học khác 
nhau”(3). Sau những thể nghiệm đó, Wittgenstein đi đến những quan niệm được 
coi là đánh dấu bước ngoặt cho triết học của ông nói riêng, trào lưu triết học phân 
tích nói chung. Những quan điểm ấy được thể hiện tập trung nhất trong Những 
nghiên cứu triết học mà do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã chỉ được xuất bản 
sau khi ông qua đời. 
 Trên thực tế, Tractatus dường như là tác phẩm duy nhất được xuất bản khi 
Wittgenstein còn sống. Nhưng không phải qua những tác phẩm mà tiếng tăm của 
Wittgenstein được định hình: trở lại Cambridge, từ 1930 đến 1936, ông hướng dẫn 
các buổi seminar của sinh viên; 1939, ông được cử giữ chức giáo sư đại học. Ông 
hoạt động ở cương vị đó đến 1947, với một vài gián đoạn do Chiến tranh thế giới 
thứ II (1941 – 1945). Sau 1947, ông từ chức giáo sư và sống ở nhiều nơi – Ai len, 
Mỹ. Năm 1951, ông quay lại Cambridge và qua đời ở đó (ngày 29-4-1951). Trong 
suốt thời gian này, Wittgenstein đã nổi tiếng với tư cách nhà triết học hàng đầu của 
trào lưu phân tích. Các bài giảng và những cuộc tiếp xúc với các triết gia trong 
giới đại học đã đưa ảnh hưởng của Wittgenstein lan rộng mà không có các tác 
phẩm trực tiếp của ông. Chỉ đến năm 1953, Những nghiên cứu triết học mới được 
xuất bản; sau đó hàng loạt các tác phẩm khác trong di sản tư tưởng đồ sộ của 
Wittgenstein đã được công bố rộng rãi, góp phần khẳng định tầm quan trọng của 
ông trong lịch sử triết học phương Tây hiện đại. 
Các tác phẩm chính của Wittgenstein: ngoài Tractatus (1921) và Những nghiên 
cứu triết học (1953), cho đến nay, đã có những tác phẩm quan trọng sau đây được 
xuất bản: 
Những nhận xét về nền tảng của toán học (1956); Sách xanh, Sách nâu (1958); 
Nhật ký 1914 – 1916 (1961); Những nhận xét triết học (1964); Bài giảng và đàm 
luận về mỹ học, tâm lý học và niềm tin tôn giáo (1966); Những nhận xét về nền 
tảng của toán học (1967); Về tính xác tín (1969); Ngữ pháp triết học (1969); 
Prototractatus (tiền Tractatus) (1971); Những nhận xét về màu sắc (1977); Những 
nhận xét về triết học của tâm lý học (1980). 
Những tư tưởng cơ bản của Wittgenstein 
Quá trình phát triển tư tưởng của Wittgenstein thường được chia thành 2 thời kỳ, 
thời sơ kỳ với Chuyên luận lôgíc – triết học (Tractatus) và thời hậu kỳ mà tiêu 
biểu là Những nghiên cứu triết học. 
1. Wittgenstein sơ kỳ và Tractatus 
Tractatus là một tác phẩm triết học rất ngắn và có hình thức khác thường. Nó bao 
gồm các lời phát biểu (các mệnh đề) được đánh số thứ tự theo một trật tự nghiêm 
ngặt. Hình thức này đã làm cho tác phẩm, nhìn một cách tổng thể, có một cấu trúc 
rất chặt chẽ. Nếu có thể ví như cái cây, thì Tractatus bao gồm 7 nhánh lớn – những 
mệnh đề chính, được đánh số từ 1 đến 7; trên mỗi nhánh là những nhánh con – 
những mệnh đề bổ sung cho các mệnh đề chính, được đánh số theo thứ tự 1.2, 1.3, 
2.21, 2.211, v.v.. Chỉ riêng mệnh đề thứ 7 không có mệnh đề bổ sung. 7 mệnh đề 
cơ bản của Tractatus như sau(4): 
1. Thế giới là toàn bộ những gì là hoàn cảnh. 
2. Cái là hoàn cảnh - sự kiện – là sự tồn tại của những trạng huống sự việc. 
3. Một bức tranh lôgíc về những sự kiện là một tư tưởng. 
4. Một tư tưởng là một mệnh đề với ý nghĩa. 
5. Một mệnh đề là một hàm bảo thực của các mệnh đề sơ đẳng (Một mệnh đề sơ 
đẳng là hàm bảo thực của chính nó). 
6. Hình thức chung của một hàm bảo thực là [p, ợ, N(ợ)]. Đó là hình thức chung 
của một mệnh đề. 
7. Cái mà ta không nói lên được thì nên đưa nó vào im lặng. 
Luận thuyết trung tâm trong tác phẩm là “luận thuyết mô phỏng về ý nghĩa”, thông 
qua đó Wittgenstein trình bày quan điểm về mối quan hệ giữa thế giới (thực tại), 
tư tưởng và ngôn ngữ. Diễn giải cụ thể về nội dung của luận thuyết này trong tác 
phẩm, chúng tôi xin trích ra đây những phân tích của Anat Biletzki và Anat Matar 
viết trong mục từ “Wittgenstein” của Bách khoa triết học Stanford online: 
 “Bắt đầu với một siêu hình học bề ngoài, Wittgenstein coi thế giới như là bao gồm 
những sự kiện (mệnh đề 1), khác với quan niệm nguyên tử luận và mang tính 
truyền thống, coi thế giới như là được tạo thành bởi những đối tượng. Sự kiện là 
những trạng huống sự việc hiện thời (2) và trạng huống sự việc, đến lượt mình, lại 
là sự kết hợp của những đối tượng (đơn thể). Những đơn thể có thể phù hợp với 
nhau theo nhiều cách xác định. Chúng có thể có rất nhiều thuộc tính và nhiều mối 
quan hệ khác nhau với nhau. Nghĩa là, những thuộc tính nội tại của một đơn thể 
quyết định tính khả thể của sự phối hợp của đơn thể đó với những đơn thể khác; 
đó là hình thức lôgíc của nó. Vì vậy, các trạng huống sự việc, bao gồm các đơn thể 
trong sự phối hợp, có tính phức tạp cố hữu. Những trạng huống của sự việc đang 
tồn tại có thể đã tồn tại theo một cách khác. Điều đó có nghĩa rằng, những trạng 
huống sự việc hoặc là đang hiện thế (đang tồn tại) hoặc là có tính khả thể. Toàn bộ 
những trạng huống sự việc - hiện thế và khả thể - cấu thành toàn bộ thực tại. Như 
vậy, thế giới chính là những trạng huống sự việc đang tồn tại. 
Sự chuyển dịch vào tư tưởng, và sau đó vào ngôn ngữ, được thể hiện qua ý tưởng 
nổi tiếng của Wittgenstein rằng, các tư tưởng và các mệnh đề là những bức tranh – 
“bức tranh là một mẫu hình của thực tại” (Tractatus, 2.12). Những bức tranh được 
tạo thành bởi các yếu tố (element) cấu thành nên bức tranh. Mỗi yếu tố đại diện 
cho một đơn thể và sự kết hợp của những đơn thể trong bức tranh đại diện cho sự 
phối hợp của các đơn thể trong một trạng huống sự việc. Cấu trúc lôgíc của bức 
tranh, dù trong tư tưởng hay trong ngôn ngữ, là đẳng cấu với cấu trúc lôgíc của 
trạng huống sự việc là cái mà nó mô phỏng. Điểm tinh tế là sự sáng suốt của 
Wittgenstein khi cho rằng, tính khả thể của cấu trúc này được chia sẻ bởi bức tranh 
(tư tưởng, mệnh đề) và trạng huống sự việc là hình thức mang tính hình ảnh. “Bởi 
vậy mà bức tranh dính liền với thực tại; nó vươn thẳng tới thực tại” (Tractatus 
2.1511). Điều này dẫn tới một cách hiểu về cái mà bức tranh có thể mô phỏng; 
nhưng cũng dẫn tới cách hiểu về cái mà bức tranh không thể mô phỏng – hình thức 
mang tính hình ảnh của chính nó. 
Khi “bức tranh lôgíc về sự kiện chính là tư tưởng” (3), trong sự dịch chuyển vào 
ngôn ngữ, Wittgenstein tiếp tục nghiên cứu những tính khả thể của ý nghĩa đối với 
những mệnh đề (4). Sự phân tích lôgíc, trong tinh thần [các tác phẩm] của Frege 
và Russell, đã dẫn dắt tác phẩm, với việc Wittgenstein sử dụng những phép toán 
lôgíc để thực hiện việc xây dựng hệ thống của mình. Khi giải thích rằng “chỉ có 
mệnh đề là có nghĩa; chỉ có trong ngữ cảnh của một mệnh đề thì tên gọi mới có ý 
nghĩa” (Tractatus 3.3), ông đã cung cấp cho người đọc hai điều kiện để ngôn ngữ 
có thể có nghĩa. Thứ nhất, cấu trúc của mệnh đề phải y theo những hạn chế của 
hình thức lôgíc; và thứ hai, những yếu tố của mệnh đề phải có chỉ xưng 
(bedeutung). Những điều kiện này có hàm ý sâu xa. Sự phân tích buộc phải đẩy 
đến cùng với một tên gọi vốn là một biểu tượng nguyên thuỷ và nó được diễn tả 
bởi tính cách vô cùng trừu tượng của cả tên gọi lẫn đơn thể (đơn giản). Hơn nữa, 
bản thân lôgíc đem đến cho chúng ta cấu trúc và những giới hạn của cái ít nhất có 
thể nói lên. 
Lôgíc dựa trên quan điểm rằng mọi mệnh đề đều hoặc đúng hoặc sai. Tính hai cực 
này của những mệnh đề cho phép cấu tạo những mệnh đề phức tạp hơn từ những 
mệnh đề nguyên tử bằng cách sử dụng toán tử về hàm bảo thực (truth-functional 
operators) (5). Wittgenstein dẫn ra, trong Tractatus, biểu đạt đầu tiên của lôgíc 
Frege trong hình thức đã được biết đến - “bảng chân lý” (truth-tables). Việc này 
cung cấp những cách thức để quay lại phân tích mọi mệnh đề thành những thành 
phần nguyên tử của chúng, bởi “mọi phát biểu về những phức hợp (complex) đều 
có thể phân tích thành một phát biểu về những thành phần cấu thành của chúng và 
thành những mệnh đề mô tả một cách toàn diện những phức hợp đó” (Tractatus 
2.0201). Ông còn đào sâu vấn đề hơn nữa bằng cách sau đó, cung cấp hình thức 
chung của một mệnh đề (6). Hình thức đó [ , , N( )] sử dụng một phép toán bình 
thường (N( )) và một biến số mệnh đề ( ) để diễn tả nhận định của Wittgenstein 
rằng, mọi mệnh đề “là kết quả của những ứng dụng liên tiếp” của những phép toán 
lôgíc đối với những mệnh đề sơ đẳng. 
Phát triển sự phân tích đó đối với bộ ba thế giới – tư tưởng – ngôn ngữ và dựa vào 
một hình thức chung của mệnh đề, Wittgenstein đến đây đã có thể khẳng định 
rằng, mọi mệnh đề có nghĩa đều có cùng giá trị. Sau đó, ông đi đến kết luận với lời 
cảnh báo về cái có thể (hay không thể) và cái nên (hay không nên) nói ra (7), bước 
ra khỏi địa hạt của những mệnh đề có thể nói lên của đạo đức học, mỹ học và siêu 
hình học”(5). 
Một nội dung quan trọng khác của Tractatus là bản thân việc phân tích mệnh đề - 
để phân biệt mệnh đề có nghĩa và mệnh đề vô nghĩa. Việc phân tích này xuất phát 
từ những nghiên cứu về khả năng mô phỏng thế giới của mệnh đề để dẫn đến 
những kết luận sâu xa hơn về bản chất của triết học. 
“Cái chung nhất giữa mệnh đề và tình huống là hình thức lôgíc, mà hình thức lôgíc 
cũng là cái quyết định nghĩa (sense) của mệnh đề. Nghĩa của mệnh đề chính là tình 
huống mà mệnh đề đó biểu đạt. “Thay vì nói “mệnh đề này có nghĩa như thế này 
hay thế nọ”, chúng ta chỉ cần đơn giản nói “mệnh đề này biểu đạt một tình huống 
như vậy” (Tractatus 4.031). Như vậy, theo cách nói của Wittgenstein, chỉ có 
những mệnh đề của ngôn ngữ biểu đạt được thực sự những sự vật của thực tại có 
thể kết hợp với nhau như thế nào mới là những mệnh đề có nghĩa, bởi vì nghĩa chỉ 
gắn với mệnh đề khi mệnh đề là những hình hoạ (bức tranh) của thực tại mô tả các 
tình huống có thể có”(6). Nghĩa là, theo Wittgenstein, mệnh đề có nghĩa chỉ là 
những mệnh đề của khoa học tự nhiên; còn những mệnh đề loại khác đều bị loại ra 
khỏi phạm vi “có nghĩa”. 
Trong quan điểm của Wittgenstein, những mệnh đề không nằm trong phạm vi “có 
nghĩa” thì hoặc là vô nghĩa (senseless) hoặc là phi ý nghĩa (nonsense). Những 
mệnh đề vô nghĩa gồm có những mệnh đề lôgíc – chúng “không đại diện cho các 
trạng huống sự việc và những hằng số lôgíc không đại diện cho những đơn thể. 
“Tư tưởng căn bản của tôi là những hằng số lôgíc không đại diện (cho cái gì hết). 
Rằng, lôgíc của các sự kiện không thể được đại diện” (Tractatus 4.0312)”(7). 
Ngoài ra, còn có những mệnh đề mà không đại diện cho các trạng huống sự việc, 
như toán học, hoặc “bản thân hình thức mang tính hình ảnh của bức tranh mà hình 
thức đó đại diện”, đều là những cái không thể được đại diện, chúng là những mệnh 
đề vô nghĩa, tức là không có ý nghĩa. 
Ngoài các mệnh đề vô nghĩa, Wittgenstein còn phân biệt những mệnh đề phi ý 
nghĩa (nonsense) – không phải là vô nghĩa, mà “vượt quá ranh giới của ý nghĩa”, 
tìm cách nói lên những gì không thể nói lên được. Những mệnh đề triết học (của 
khoa siêu hình học truyền thống, của quan điểm “cái tôi” trong thuyết duy ngã, 
của đạo đức học, của mỹ học, v.v.) là những mệnh đề thuộc loại này. Nhưng, phi ý 
nghĩa không phải là đáng loại bỏ. Ở đây, Wittgenstein đã đưa ra quan điểm về “nói 
lên” và “thể hiện ra”. Những mệnh đề phi ý nghĩa chỉ có thể thể hiện ra chứ không 
thể được nói lên. “Cái có thể được thể hiện ra thì không thể nói lên được” 
(Tractatus 4.1212). 
Những lập luận trên đã dẫn đến những kết luận về triết học, như: “Hầu hết các 
mệnh đề và các câu hỏi trong các tác phẩm triết học không sai mà là phi ý nghĩa. 
Do vậy, ta không thể có câu trả lời cho những câu hỏi thuộc loại ấy, mà chỉ có thể 
chỉ ra rằng chúng phi ý nghĩa. Hầu hết các mệnh đề và các câu hỏi của các nhà 
triết học xuất phát từ sự sai lầm của chúng ta trong việc hiểu về lôgíc của ngôn 
ngữ của chúng ta. (…) Và không đáng ngạc nhiên khi những vấn đề sâu xa nhất 
thực chất lại không phải là vấn đề gì hết” (Tractatus 4.003); “Triết học không phải 
là một môn khoa học tự nhiên. Từ ngữ “triết học” phải biểu đạt một cái gì đứng 
trên hoặc dưới, chứ không phải đứng cạnh các khoa học tự nhiên” (Tractatus 
4.111). “Hầu hết các mệnh đề và câu hỏi trong triết học là phi ý nghĩa”. Vậy, triết 
học để làm gì (triết học có còn cần thiết nữa hay không)? Câu trả lời của 
Wittgenstein là một sự nhìn nhận lại bản chất của triết học: “Triết học không phải 
là một lý thuyết, mà là một hành động” (Tractatus 4.112), một hành động lọc gạn 
(bằng công cụ lôgíc) làm sáng tỏ tư tưởng. “Triết học không có kết quả là “các 
mệnh đề triết học” mà đúng hơn là sự làm sáng tỏ các mệnh đề. Không có triết 
học, tư tưởng, như nó đã từng là thế, mù mờ và tối nghĩa: nhiệm vụ của triết học là 
làm cho chúng trở nên sáng tỏ và đưa lại cho chúng những ranh giới rõ ràng” 
(Tractatus 4.112). 
Một mặt, quan điểm như vậy về triết học có một ý nghĩa sâu xa – nó phủ nhận tính 
chất giáo điều của triết học truyền thống, điều này được đánh giá là một bước tiến 
trong quá trình xem xét lại bản chất của triết học. Mặt khác, nó lại làm cho bản 
thân Tractatus phải đối mặt với nguy cơ rơi vào tình trạng “phi ý nghĩa”. Bởi 
“những khái niệm mà Tractatus sử dụng – những khái niệm triết học - lôgíc – 
không thuộc về thế giới và vì thế không thể được sử dụng để diễn đạt bất cứ cái gì 
có nghĩa”(8). Wittgenstein đã “giải quyết” tình trạng này bằng ẩn dụ về cái thang 
ở những câu cuối cùng của tác phẩm: “Những mệnh đề của tôi được đưa ra với tư 
cách những giải thích theo nghĩa sau: ai hiểu tôi rốt cuộc sẽ thấy rằng chúng là phi 
ý nghĩa, khi anh ta đã sử dụng chúng – như những bậc thang – để leo lên trên 
chúng. (Anh ta phải, có thể nói như vậy, vứt cái thang đi sau khi đã dùng nó để leo 
lên cao). Anh ta phải vượt qua những mệnh đề đó và từ đó, có thể nhìn rõ thế giới” 
(Tractatus 6.54). 
Có thể nói, Tractatus đã bao quát toàn bộ tư tưởng của Wittgenstein thời sơ kỳ. 
Chính ông – sau khi xuất bản tác phẩm – đã coi nó như sự giải quyết triệt để mọi 
“vấn nạn triết học” và không còn việc gì để làm trong triết học nữa. Tuy nhiên, rốt 
cuộc, Wittgenstein đã không dừng lại ở Tractatus. Càng về sau, ông càng nhận 
thấy Tractatus có những thiếu sót, rồi những sai lầm xuất phát từ chính những giả 
định đầu tiên của nó. Ông đã đi đến phủ nhận tác phẩm này của mình và trên cơ sở 
phá huỷ những nền tảng của Tractatus mà xây dựng những quan điểm hoàn toàn 
mới. Điều này tạo nên giai đoạn thứ hai trong tiến trình tư tưởng của Wittgenstein, 
được đại diện bởi Những nghiên cứu triết học. 
2. Wittgenstein hậu kỳ và Những nghiên cứu triết học 
Những nghiên cứu triết học được xuất bản vào năm 1953, bao gồm hai phần. Phần 
I do chính Wittgenstein hoàn thiện, được dự định phát hành năm 1946 nhưng sau 
đó, ông lại đề nghị huỷ việc in. Phần II do những người biên tập – những người 
được uỷ thác trông coi và khai thác di sản của Wittgenstein – thêm vào. 
Trong Lời nói đầu (viết năm 1945), Wittgenstein viết: “Trong 4 năm qua, tôi đã có 
điều kiện đọc lại tác phẩm đầu tiên của mình (Tractatus Logico-Philosophicus) và 
giải thích những tư tưởng của nó. Sau đó, tôi chợt nghĩ rằng, mình nên công bố 
những tư tưởng trước đây cùng với những tư tưởng mới, bởi những tư tưởng mới 
chỉ có thể được xem xét rõ ràng khi được đặt trên và trong sự đối lập với phông 
nền những cách thức suy nghĩ cũ”(9). Quả vậy, hầu hết nội dung phần I của 
Những nghiên cứu triết học đều dựa trên sự phê phán đối với những quan điểm 
trong Tractatus. “Wittgenstein nghĩ rằng, trong tác phẩm trước kia của mình, như 
những nhà triết học khác, ông đã đơn giản hoá quá mức mối quan hệ giữa ngôn 
ngữ và thế giới. Liên kết ngôn ngữ và thế giới đã chỉ được đặt trên hai điểm chủ 
yếu: liên kết giữa tên gọi và đơn thể và sự đối xứng hay phi đối xứng giữa mệnh 
đề và sự kiện. Ông đi đến nhận xét rằng, điều này là một sai lầm nghiêm 
trọng”(10), mang nặng tính hình thức và bỏ qua những khía cạnh đặc biệt quan 
trọng khác của ngôn ngữ - khả năng giao tiếp, bối cảnh hoạt động người, văn 
hoá… Phủ nhận những tư tưởng của chính mình trong Tractatus, phủ nhận cả hệ 
thống những thuật ngữ được sử dụng trong tác phẩm đó (sự kiện, sự kiện nguyên 
tử, mệnh đề sơ đẳng, đơn tố, đơn thể, trạng huống sự việc, v.v.), Wittgenstein đã 
xây dựng những quan niệm mới dựa trên những thuật ngữ cũng hoàn toàn mới. 
Vấn đề ngữ nghĩa (của mệnh đề trong ngôn ngữ) và trò chơi ngôn ngữ 
Nếu như trong Tractatus, Wittgenstein nói về nghĩa của mệnh đề trong ngôn ngữ 
với tư cách sự đại diện, nghĩa của mệnh đề được quan niệm: “Chỉ có mệnh đề là 
có nghĩa; chỉ có trong ngữ cảnh của một mệnh đề thì tên gọi mới có ý nghĩa” 
(Tractatus 3.3), thì trong Những nghiên cứu triết học, vấn đề ngữ nghĩa được xem 
xét từ một cái nhìn rộng rãi hơn nhiều: “Đối với phần lớn các trường hợp – dù 
không phải là toàn bộ - mà trong đó, chúng ta sử dụng từ “ngữ nghĩa” thì nó phải 
được định nghĩa: ngữ nghĩa của một từ là việc sử dụng nó trong ngôn ngữ”(11). 
Rõ ràng, đây là một bước ngoặt trong việc nghiên cứu vấn đề ngữ nghĩa của mệnh 
đề. Việc cho rằng chỉ trong quá trình sử dụng ngữ nghĩa của từ mới được xác định 
đã khiến cho ngữ nghĩa mở rộng hơn, đa dạng hơn rất nhiều. “Khi tìm hiểu nghĩa, 
nhà triết học buộc phải “nhìn và thấy” sự đa dạng của việc sử dụng từ trong ngữ 
cảnh của nó (…). Trong việc tạo nghĩa cho một từ, mọi sự tổng quát hoá mang 
tính giải thích đều bị thay thế bởi sự mô tả về việc sử dụng”(12). Không có tổng 
quát hoá mà chỉ còn mô tả, đó là một cách thức đấu tranh với những tín điều triết 
học – theo quan điểm của Wittgenstein. Việc mô tả sự đa dạng của việc sử dụng từ 
(và mệnh đề) với tư cách ngữ nghĩa của từ (và mệnh đề) đã dẫn đến quan niệm của 
Wittgenstein về “trò chơi ngôn ngữ”. Trung thành với quan điểm không tổng quát 
hoá, Wittgenstein không đưa ra bất cứ định nghĩa cố định nào về trò chơi ngôn 
ngữ, mà chỉ trở đi trở lại với nó thông qua hàng loạt những ví dụ và bình phẩm. 
A.Kenny đã viết về trò chơi ngôn ngữ trong tư tưởng của Wittgenstein như sau: 
“Wittgenstein đưa ra những ví dụ cho trò chơi ngôn ngữ: thực hiện và ra mệnh 
lệnh, mô tả sự xuất hiện của đối tượng, diễn đạt cảm xúc, đo lường, xây dựng một 
đối tượng dựa trên sự mô tả về nó, tường thuật lại một sự kiện, suy xét về một sự 
kiện, bịa ra một câu chuyện, đóng kịch, đoán những câu đố, kể chuyện cười, hỏi, 
nguyền rủa, chào đón, cầu nguyện. Ông cũng nói về trò chơi ngôn ngữ bằng rất 
nhiều từ ngữ khác nhau. Wittgenstein không đề xuất một học thuyết chung nào về 
trò chơi ngôn ngữ: việc sử dụng thuật ngữ này chỉ mang ý nghĩa nhấn mạnh rằng 
từ ngữ không thể được hiểu ở bên ngoài ngữ cảnh chúng được sử dụng. Trong việc 
đưa lại một sự mô tả về nghĩa của một từ, chúng ta cần tìm kiếm cái vai trò mà nó 
đóng trong cuộc sống của chúng ta. Việc sử dụng thuật ngữ “trò chơi” không phải 
để ám chỉ rằng ngôn ngữ là một thứ gì đó tầm thường, mà từ này được chọn vì trò 
chơi bộc lộ cùng một kiểu đa dạng mà các hoạt động ngôn ngữ bộc lộ. Nhiều trò 
chơi có tính cạnh tranh, nhiều trò khác thì không; nhiều trò chơi có luật chơi, 
nhiều trò khác có tính tự phát; nhiều trò chơi với bóng, nhiều trò chơi trên các loại 
bàn khác nhau; nhiều trò chơi đòi hỏi kỹ năng, nhiều trò không. Không có điểm 
chung nào biểu thị trò chơi với tư cách trò chơi; mà đúng hơn, các trò chơi khác 
nhau chia sẻ những đặc điểm khác nhau, giống như những thành viên khác nhau 
trong một gia đình có những điểm tương tự nhau không phải theo một cách duy 
nhất, mà theo rất nhiều cách. Tương tự như thế, không có một đặc điểm mang tính 
bản chất cho ngôn ngữ; chỉ có sự tương tự như trong gia đình giữa vô số những trò 
chơi ngôn ngữ”(13). 
Sự tuân thủ quy tắc 
Ngoài việc “chia sẻ những điểm tương tự mang tính gia đình” với nhau, các trò 
chơi ngôn ngữ trong quan điểm của Wittgenstein còn có những đặc tính khác: tính 
xã hội và tính hiện diệ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 y_3949.pdf y_3949.pdf