Hà Nội xác định một mục tiêu khá tham vọng-trởthành “thành phốcông 
nghiệp trước năm 2015”, về đích sớm hơn mục tiêu của Việt Nam đặt ra 
là 5 năm
1
. Đứng dưới góc độkinh tế, để đạt được mục tiêu này Hà Nội 
cần có những hành động cụthể đểtrởthành điểm đến hấp dẫn trong mắt 
các nhà đầu tư. Nhiều nghiên cứu thực hiện gần đây đã chỉra cách thức 
chính quyền lắng nghe doanh nghiệp và cách thi hành luật là yếu tốquan 
trọng tạo nên sức hấp dẫn môi trường đầu tưcủa một địa phương. Cùng 
nguồn lực nhưnhau, nhưng thành tựu phát triển kinh tếcủa địa phương 
phụthuộc vào các cam kết khác nhau của chính quyền địa phương trong 
một nền kinh tế đa bên hữu quan. Trong bối cảnh nhưvậy, mối quan hệ
giữa chính quyền và doanh nghiệp là một trong những trọng tâm cần được 
nghiên cứu đểgiúp địa phương đạt được mục tiêu vềphát triển kinh tếvà 
xã hội. Đáng tiếc là trong trường hợp của Hà Nội chủ đềnày chưa được 
nghiên cứu đầy đủ. 
Bài viết này nhằm làm sáng tỏmối quan hệgiữa chính quyền Hà Nội và 
cộng đồng doanh nghiệp, trong đó tập trung phát hiện các mối liên hệ“rời 
rạc” giữa hai bên. Trên thực tế, các mối liên hệ“rời rạc” hoặc khoảng 
cách có thểtồn tại ởbất kỳcấp nào, làm phân cách chính quyền và cộng 
1
Phỏng vấn ông Phùng Hữu Phú, 
2005 
1 
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội 
đồng doanh nghiệp. Tiếp đến, các phương án đểgiải quyết các khoảng 
cách nói trên sẽ được thảo luận. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lắng nghe và đáp ứng cộng đồng doanh nghiệp 
Chương 1 Lắng nghe 
và đáp ứng cộng đồng doanh nghiệp 
Hoàng Thanh Hương 
Diễn đàn Phát triển Việt Nam và 
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 
Hà Nội xác định một mục tiêu khá tham vọng-trở thành “thành phố công 
nghiệp trước năm 2015”, về đích sớm hơn mục tiêu của Việt Nam đặt ra 
là 5 năm1. Đứng dưới góc độ kinh tế, để đạt được mục tiêu này Hà Nội 
cần có những hành động cụ thể để trở thành điểm đến hấp dẫn trong mắt 
các nhà đầu tư. Nhiều nghiên cứu thực hiện gần đây đã chỉ ra cách thức 
chính quyền lắng nghe doanh nghiệp và cách thi hành luật là yếu tố quan 
trọng tạo nên sức hấp dẫn môi trường đầu tư của một địa phương. Cùng 
nguồn lực như nhau, nhưng thành tựu phát triển kinh tế của địa phương 
phụ thuộc vào các cam kết khác nhau của chính quyền địa phương trong 
một nền kinh tế đa bên hữu quan. Trong bối cảnh như vậy, mối quan hệ 
giữa chính quyền và doanh nghiệp là một trong những trọng tâm cần được 
nghiên cứu để giúp địa phương đạt được mục tiêu về phát triển kinh tế và 
xã hội. Đáng tiếc là trong trường hợp của Hà Nội chủ đề này chưa được 
nghiên cứu đầy đủ. 
Bài viết này nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ giữa chính quyền Hà Nội và 
cộng đồng doanh nghiệp, trong đó tập trung phát hiện các mối liên hệ “rời 
rạc” giữa hai bên. Trên thực tế, các mối liên hệ “rời rạc” hoặc khoảng 
cách có thể tồn tại ở bất kỳ cấp nào, làm phân cách chính quyền và cộng 
1 Phỏng vấn ông Phùng Hữu Phú, 
 truy cập ngày 16 tháng 12 năm 
2005 
1 
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội 
đồng doanh nghiệp. Tiếp đến, các phương án để giải quyết các khoảng 
cách nói trên sẽ được thảo luận. 
1. Hệ thống về sự tác động giữa chính quyền địa 
phương và doanh nghiệp 
Chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp được xem là các tác nhân xã hội lần 
lượt trong khu vực công và khu vực tư nhân. Hai khu vực này tương tác với 
nhau thông qua một loạt các thể chế. Sự tương tác giữa hai khu vực này là 
chìa khóa để hiểu mối quan hệ giữa chúng. 
Xét về khái niệm, sự tác động giữa chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp có 
thể sâu sắc, hữu cơ và dài hạn hoặc rời rạc, phân tán, cơ học và ngắn hạn. Ở 
một thái cực, hai khu vực có thể không gặp nhau hoặc gặp nhau rất ít và 
thông thường là chính quyền truyền thông với cộng đồng doanh nhân theo 
cách chính thức thông qua việc ban hành các quy định, quy chế, thu thập 
thông tin nói chung… Trong trường hợp như vậy, chính phủ thực thi quyền 
của mình mà không tham vấn doanh nghiệp. Nói cách khác, chính quyền đại 
diện cho quyền lực chính trị hợp nhất và thông qua các chính sách, chính phủ 
định hướng và chỉ dẫn hành động cho khu vực tư nhân. Do đó, chính phủ và 
khu vực doanh nghiệp bị gián đoạn. Khoảng cách giữa hai khu vực này ảnh 
hưởng đến tính đáp ứng của chính phủ. Điều này càng trầm trọng hơn khi mà 
các tác động qua lại phi thị trường chi phối quan hệ hai khu vực. Ở một thái 
cực khác, chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp có thể cùng nhau hình thành 
một vài thể chế qua đó hai khu vực tương tác với nhau bằng cách chia sẻ 
thông tin, truyền thông, đối thoại, thương lượng và hành động chung. Dạng 
thức của việc tác động qua lại sẽ là sự tương hỗ lẫn nhau (bình đẳng, có đi có 
lại) hoặc là một sự trao đổi, ví dụ như các chương trình hỗ trợ tài chính. Đối 
thoại giữa chính phủ và khu vực doanh nghiệp được thực hiện trong phạm vi 
mạng lưới các tổ chức công và tư nhân. Các tổ chức này được hình thành 
nhằm đem lại sự hiệp lực (kết quả là lợi ích các bên đạt tổng dương) hơn là 
một sự phân chia lao động đơn thuần (kết quả là lợi ích các bên đạt tổng bằng 
không). Một cách lý tưởng, sự tác động qua lại sẽ tác động đến quá trình học 
2 
Lắng nghe và đáp ứng cộng đồng doanh nghiệp 
tập dài hạn qua đó kiến thức sẽ được các bên sáng tạo ra và sử dụng. Sự tác 
động qua lại này sẽ làm tăng phúc lợi chung thông qua sự đồng thuận giữa 
các bên chủ yếu. 
Hệ thống này được trình bày ở hình dưới đây. Trong trường hợp đầu, mối 
quan hệ chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp là sâu sắc, mạnh mẽ, và dài 
hạn được mô tả thông qua đường đậm liền nét. Trường hợp hai, mối quan hệ 
cơ học và rời rạc được mô tả bằng đường mảnh không liền nét, hàm ý có 
những cản trở trong kênh truyền thông giữa hai bên. 
Hình 1: Hệ thống cách tác động qua lại giữa chính phủ và 
 cộng đồng doanh nghiệp 
3 
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội 
Thực tiễn không chỉ đơn giản hai màu đen và trắng, do đó, dạng thức của sự 
tác động giữa chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp có thể không ở những 
thái cực nêu trên mà nằm đâu đó ở giữa. Tuy nhiên, chúng ta cũng quan sát 
thấy nhiều thực tiễn đáng tham khảo. 
Quan hệ giữa chính phủ Malaysia và ngành công nghiệp chế biến có khuynh 
hướng như trường hợp đầu tiên được mô tả trong hình 1. Chính phủ Malaysia 
thực thi chính sách do khu vực tư nhân dẫn dắt và định hướng kinh doanh. 
Nhiều chính sách và biện pháp khác nhau được thực hiện nhằm duy trì sức 
cạnh tranh của đất nước cũng như khẳng định vị trí hấp dẫn trong mắt các 
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Để làm như vậy, chính phủ Malaysia 
tương tác với cộng đồng doanh nghiệp ở mức độ khá cao. Ví dụ việc xây 
dựng Kế hoạch phát triển tổng thể công nghiệp dựa trên sự tham gia rất cao 
của cộng đồng doanh nghiệp. Quan điểm của doanh nghiệp được đưa vào kế 
hoạch ngay từ ban đầu. Cộng đồng doanh nghiệp được tham gia vào Nhóm 
nguồn lực kỹ thuật và thậm chí được tham gia ngay từ những buổi họp thảo 
luận đầu tiên. Cộng đồng doanh nghiệp đã đưa ra nhiều chủ đề còn Bộ Công 
nghiệp và Ngoại thương (MITI) nỗ lực để đưa ra các mối quan tâm về chính 
sách dài hạn2. Nói tóm lại, chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp chia sẻ 
tầm nhìn và mối quan tâm, cùng phát triển những thỏa thuận mang tính thể 
chế cho phép sự tham gia sâu của doanh nghiệp khi xây dựng chính sách. Kết 
quả là Malaysia được đánh giá là một trong những môi trường kinh doanh tốt 
nhất trên Thế giới. 
Cùng liên quan đến câu hỏi “làm thế nào” chính phủ lắng nghe cộng đồng 
doanh nghiệp. Thái Lan cũng là một ví dụ tốt để tham khảo nếu xem xét việc 
hoạch định chính sách công nghiệp dưới thời Thủ tướng Thaksin. Chính sách 
công nghiệp của Thái Lan có đặc điểm là có sự tham gia rõ nét của doanh 
nghiệp. Nói cách khác, các bước thiết kế, thực hiện và điều chỉnh chính sách 
được thực hiện thông qua sự hợp tác chặt chẽ và liên tục giữa chính phủ và 
cộng đồng doanh nghiệp trong đó doanh nghiệp đóng vai trò dẫn dắt. Ở Thái 
Lan, công việc hình thành kế hoạch tổng thể được bắt đầu bằng việc chính 
phủ lắng nghe cộng đồng doanh nghiệp. Thành phần và mục tiêu của kế 
2 VDF (2006), Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaysia và Nhật 
Bản: Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam 
4 
Lắng nghe và đáp ứng cộng đồng doanh nghiệp 
hoạch tổng thể được cộng đồng doanh nghiệp đề xuất. Tại mỗi bước của việc 
thực hiện, chỉnh sửa và giải quyết vấn đề, khu vực tư nhân có rất nhiều cơ hội 
để trình bày ý kiến của mình. Do đó, khi kế hoạch tổng thể được thông qua 
có rất ít tranh luận giữa các bên hữu quan khác nhau. Không như trường hợp 
của Bộ Công nghiệp Việt Nam, kế hoạch tổng thể của Thái Lan không cần 
thiết phải được thông qua chính thức để có hiệu lực. Nói ngắn gọn, cơ quan 
chịu trách nhiệm chính thức là Bộ Công nghiệp nhưng ý tưởng được chia sẻ 
cho tất cả bên hữu quan trong quá trình dự thảo. 
Chính phủ Thái Lan cũng thiết lập các ủy ban chính phủ trong những ngành 
quan trọng. Những ủy ban này đánh giá thực trạng, xác định chủ đề mới và 
thành lập các ủy ban “con” đặc biệt để dự thảo các giải pháp được yêu cầu. 
Vì kế hoạch tổng thể chỉ xây dựng những mục tiêu rộng và vì mỗi ủy ban 
không ngừng điều chỉnh việc thực kế hoạch tổng thể, do đó không cần thiết 
để sửa đổi kế hoạch tổng thể. Điều này hoàn toàn đối nghịch với trường hợp 
Việt Nam. Như các phần sau đây sẽ trình bày, các cuộc gặp mặt giữa chính 
phủ Việt Nam và các nhà đầu tư là chính thức, không thường xuyên và không 
mang tính tương tác. 
Hiển nhiên là Thái Lan theo cách tiếp cận từ trên xuống với tầm nhìn rõ ràng 
do thủ tướng Thaksin đề xướng. Thaksin muốn điều hành một quốc gia như 
điều hành một doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, việc ra quyết định của 
cơ quan chính quyền nhanh hơn quyết định của khu vực tư nhân, đồng thời 
đối thoại giữa các bộ, doanh nghiệp trong và ngoài nước và các đối tác nước 
ngoài được chú ý. Kết quả là Thái Lan đạt được những thành tích quan trọng 
trong phát triển kinh tế và công nghiệp hóa. 
Qua những ví dụ trên có thể thấy sự tác động qua lại giữa chính phủ và cộng 
đồng doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy môi 
trường kinh doanh. Sự tác động không chỉ liên quan đến mức độ tham gia của 
cộng đồng doanh nghiệp đến quá trình hoạch định chính sách mà còn là quan 
điểm của chính phủ, cam kết về phát triển doanh nghiệp tư nhân và các thỏa 
thuận mang tính thể chế. 
5 
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội 
Trở lại với trường hợp Hà Nội, cần nhấn mạnh rằng Hà Nội khác biệt trường 
hợp của Thái Lan và Malaysia về một số mặt. Xét dưới góc độ kinh tế, sự 
khác biệt quan trọng nhất là do sự khác biệt về cấp độ (Hà Nội là một thành 
phố không phải là một quốc gia như 2 trường hợp đã nêu), điều này liên quan 
đến cấu trúc quyền lực và sự tự chủ trong việc ra quyết định. Tuy nhiên, vượt 
trên sự khác biệt đó, Hà Nội nên thúc đẩy kênh thông tin chính quyền 
địa phương và doanh nghiệp theo dạng thứ nhất của sự tác động qua lại đã 
trình bày ở trên. Đó là chìa khóa giúp Hà Nội đạt mục tiêu phát triển kinh tế 
trở thành điểm đến hấp dẫn nhà đầu tư. 
Chúng tôi sẽ phân tích trường hợp của Hà Nội bằng cách xem xét các 
kênh chính phủ ảnh hưởng đến cộng đồng doanh nghiệp và ngược lại. 
Phần sau đây sẽ cung cấp những thông tin cần thiết. 
2. Cách thức chính quyền địa phương tác động cộng 
đồng doanh nghiệp 
Tầm quan trọng của sự tương tác giữa chính phủ và doanh nghiệp được 
Chính phủ Việt Nam xác nhận và tuyên bố tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc 
về Thương mại và Phát triển tại Sao Paulo năm 2004: “Sự tác động qua lại 
giữa chính phủ và khu vực tư nhân cũng như quan hệ đối tác với doanh 
nghiệp sẽ được thúc đẩy và tăng cường… Chúng tôi đặc biệt chú ý đến xây 
dựng quan hệ đối tác giữa các bên khác nhau như chính phủ, khu vực doanh 
nghiệp, vùng, tổ chức phi chính phủ , viện nghiên cứu và hàn lâm, v.v.” Tuy 
nhiên thuật ngữ “quan hệ đối tác” hoặc thúc đẩy tác động qua lại giữa chính 
phủ và doanh nghiệp không được đề cập hiển nhiên trong các văn bản của 
chính quyền Hà Nội. Tuy nhiên, những thuật ngữ này được lồng ghép ẩn ý 
trong các chính sách tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn. Chính quyền Hà 
Nội khẳng định mạnh mẽ và rõ ràng trong chiến lược dài hạn là “trái tim của 
cả nước, trung tâm hành chính, chính trị của cả nước, trung tâm kinh tế quốc 
6 
Lắng nghe và đáp ứng cộng đồng doanh nghiệp 
tế”3. Điều này được hiểu là chính quyền muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế 
trở thành trung tâm kinh tế lớn trong khu vực. 
Như các địa phương khác, chính quyền Hà Nội được tổ chức theo cách tập 
trung quyền và tiếp cận từ trên xuống. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội có 
trách nhiệm soạn thảo nội dung chính sách và tổ chức thực hiện chính sách 
trong phạm vi của mình. Trên thực tế, phạm vi quyền hạn của UBND khá 
rộng rãi, ngoại trừ vấn đề thuế và nhân sự. UBND thành phố chịu trách 
nhiệm về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm và dài hạn và sau đó đệ 
trình lên Hội đồng nhân dân Thành phố và Chính phủ. UBND Thành phố 
cũng được yêu cầu tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh 
tế do các bộ ngành và chính phủ đề xướng. UBND được tổ chức thành các 
cấp, có mối liên hệ trực tuyến các Sở ở cấp thành phố, phòng ban ở cấp quận 
huyện và bộ phận ở cấp xã phường. Quyền hạn giảm khá nhiều qua các cấp 
thể hiện sự tập trung hóa tuy nhiên các nỗ lực về cải cách hành chính đang 
được thực hiện. Hình 2 mô tả điều này một cách đơn giản. 
Hình 2: Tổ chức theo tuyến chức năng-tập trung quyền 
Sự tác động của chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào 
cấu trúc của chính phủ và quan điểm của chính quyền về doanh nghiệp. 
3 UBND Hà Nội (2000) 
7 
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội 
Hà Nội với cơ cấu mô tả như trên dường như vẫn còn có thể cải thiện sự tác 
động qua lại giữa chính quyền và doanh nghiệp. Chúng tôi sẽ xem xét sự tác 
động này một cách rõ hơn để tìm ra câu trả lời thích hợp. 
Sự tương tác giữa chính quyền và doanh nghiệp nhiều hay ít? 
Sự tương tác giữa chính quyền địa phương và cộng đồng doanh nghiệp nhiều 
hơn ở cấp thực hiện chính sách. Tại cấp cao hơn, chính quyền và cộng đồng 
doanh nghiệp không gặp nhau thường xuyên và theo cách khuôn khổ chính 
thức chủ yếu dưới dạng ban hành văn bản, quy định thu thập dữ liệu và giám 
sát. Trong bối cảnh như vậy, việc chia sẻ tầm nhìn và mối quan tâm không 
được chú ý đầy đủ. Do đó, rất có thể những quan điểm của nhà đầu tư không 
được đưa vào đầy đủ trong quá trình hoạch định chính sách. Trường hợp cấp 
giấy phép là một ví dụ đáng được quan tâm. Nghiên cứu về cấp giấy phép 
được Tổ nghiên cứu của Chính phủ và VCCI thực hiện cho thấy tình trạng 
cấp giấy phép và giấy phép con làm tổn hại đến môi trường kinh doanh. Từ 
194 giấy phép có hiệu lực năm 2002, năm 2003 số giấy phép là 246 và năm 
2004 là 298. Hơn nữa, 55% của những giấy phép trên do cơ quan cấp tỉnh 
ban hành, và 22% do cơ quan chính quyền ở các cấp thấp hơn. Rõ ràng điều 
này đi ngược lại với Luật Doanh nghiệp. Dường như là chính quyền địa 
phương muốn thực thi quyền đối với doanh nghiệp hơn là hỗ trợ. Trường hợp 
Hà Nội cũng được phân tích trong nghiên cứu. Giám đốc của một doanh 
nghiệp tư nhân phàn nàn rằng hiệu lực của giấy phép là quá ngắn nên doanh 
nghiệp phải tốn nhiều thời gian và tiền bạc để có giấy phép. Ví dụ xe tải trộn 
bê tông chỉ được đi vào thành phố (vào ban đêm) khi có giấy phép của Sở 
giao thông công chính. Điều đáng nói là giấy phép này chỉ cấp cho từng công 
trình và có giá trị trong vòng một tháng. Thời hạn có hiệu lực của giấy phép 
quá ngắn nên doanh nghiệp phải đi đến cơ quan chính quyền nhiều lần trong 
suốt thời gian xây dựng công trình4. 
Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội là một trong những cầu nối quan trọng giữa 
chính quyền địa phương và các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng. Tuy nhiên 
dường như cơ quan này chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của nhà đầu 
tư. Phòng đầu tư nước ngoài của Sở có nhiệm vụ cơ bản là thu hút đầu tư 
4 VCCI (2005) 
8 
Lắng nghe và đáp ứng cộng đồng doanh nghiệp 
nước ngoài và cấp giấy phép. Nhiều yêu cầu khác nhau từ phía nhà đầu tư 
nước ngoài có thể vượt quyền hạn của cơ quan này. Trường hợp của 
Tp.HCM là một ví dụ tốt đáng được quan tâm. Trung tâm Xúc tiến Thương 
mại và Đầu tư Tp.HCM là một cầu nối quan trọng giữa chính quyền địa 
phương và nhà đầu tư. Đây là một trong hai tổ chức ở Việt Nam được công 
nhận là tổ chức xúc tiến thương mại và có tên trong hồ sơ của Các tổ chức 
xúc tiến thương mại do Trung tâm Thương mại quốc tế/UNCTAD/WTO 
(ITC) và Danh mục các tổ chức liên quan đến thương mại và đầu tư của các 
nước và vùng lãnh thổ đang phát triển ở châu Á và Thái Bình Dương do 
ESCAPE/UN phát hành. Với nhiệm vụ chính là xúc tiến xuất khẩu và thu 
hút đầu tư nước ngoài vào Tp.HCM, ITPC cung cấp những thông tin cập 
nhật về đầu tư và thương mại cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. 
Họ tổ chức diễn đàn tương tự như Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam từ năm 
2002. Trên thực tế, Hà Nội không có những tổ chức như vậy. Đó cũng là lý 
do Hà Nội gặp khó khăn trong việc lắng nghe và đáp ứng nhu cầu của nhà 
đầu tư. 
Những can thiệp mang tính hành chính có làm tăng khoảng cách? 
Có những can thiệp mang tính hành chính làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi 
trường đầu tư của Hà Nội. Trường hợp chính sách nhà và đất là ví dụ. Nhà 
đầu tư vào lĩnh vực nhà ở phải để lại 20% cho quỹ đất thành phố và 50% nhà 
ở để bán cho các đối tượng ưu tiên do thành phố quy định. Điều hiển nhiên là 
chính quyền địa phương nên can thiệp vào thị trường nhà đất. Tuy nhiên, sự 
can thiệp nói trên của chính quyền làm thị trường nhà đất trở nên phức tạp và 
làm tăng giá nhà đất. Sẽ tốt hơn nếu chính quyền đối thoại với nhà đầu tư 
cũng như cá bên hữu quan khác để làm hài hòa lợi ích các bên. 
Một ví dụ khác được trích dẫn ở đây là chủ đề khá nóng trong những tháng 
cuối năm 2005 về quy định ngừng đăng ký xe máy. Xét về chừng mực nào 
đó, ví dụ này hơi khác trường hợp nhà đất nêu trên. Chính quyền Hà Nội 
quyết định tạm thời ngừng đăng ký xe máy trong 4 quận nội thành từ năm 
2003 để giải quyết nạn tắc nghẽn giao thông và hạn chế tỷ lệ tai nạn. Đến 
2004, việc ngừng đăng ký này được mở rộng áp dụng thêm 3 quận huyện 
mới. Trong trường hợp này, nhiều nhà phân tích cho rằng chính quyền 
9 
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội 
Hà Nội đang dựa trên quan điểm quản lý dựa trên sự thuận tiện cho mình hơn 
là đưa ra các phương án chính sách khác nhau làm hài hòa lợi ích các bên 
trong nền kinh tế nhiều bên hữu quan. Các nhà sản xuất và phân phối xe máy, 
đặc biệt là đối với dòng xe ga, bị tổn hại nhiều. Hà Nội tiêu thụ 25% sản 
lượng sản xuất của nhà sản xuất xe ga lớn nhất nước-Yamaha. Do đó, sản 
lượng sản xuất của Yamaha sụt giảm 20% ngay trong năm đầu tiên ban hành 
quyết định này. Yamaha bị buộc phải hướng vào thị trường nông thôn nhưng 
trên thực tế nông thôn không phải là thị trường lý tưởng cho xe ga. Ngoài ra, 
phần lớn trong số 20 đại lý của Yamaha tại Hà Nội có khả năng sẽ đóng cửa. 
Những nhà sản xuất xe ga khác như Honda và SYM cũng chia sẻ lo lắng của 
Yamaha. “Thời kỳ vàng son của xe ga sẽ chấm dứt nếu quy định này được 
thực hiện”, một người buôn bán xe ga trên phố Bà Triệu nói: “Sẽ là không 
thể để bán một chiếc xe 100 triệu đồng như Dylan hoặc @ cho người dân 
nông thôn”. Tuy nhiên cần lưu ý rằng quy định này không chỉ tác động đến 
thị trường xe cao cấp mà còn tác động đến cả thị trường xe sản xuất trong 
nước. Thị trường khu vực thành thị bị suy giảm đáng kể và đột ngột và đồng 
thời làm tăng cạnh tranh trên thị trường ngách ở nông thôn. “Chúng tôi phải 
đối mặt với cạnh tranh lớn hơn khi đa phần các nhà sản xuất ra sức bán xe 
trên thị trường nông thôn”, giám đốc của một công ty trong nước nói như 
vậy. Hiệp hội ôtô và xe máy Việt Nam bày tỏ sự quan ngại khi phần lớn 
thành viên của hội gặp khó khăn khi quy định này có hiệu lực5. 
Rõ ràng là chính quyền địa phương đang thông tin với cộng đồng doanh 
nghiệp chủ yếu qua một cách tiếp cận từ trên xuống. Chính quyền đang cố 
gắng ảnh hưởng, tác động đến doanh nghiệp bằng cách ban hành các quy 
định và đưa ra sự can thiệp mang tính hành chính. Sự kết nối giữa chính 
quyền và doanh nghiệp bị ngắt quãng do những sự can thiệp mang tính hành 
chính nói trên. Điều gì đằng sau những sự can thiệp hành chính này? Có ít 
nhất hai nguyên nhân cơ bản sau. Đầu tiên là do quan điểm chia sẻ tầm nhìn 
và mối quan tâm không được chú ý đầy đủ. Khoảng cách về mặt tư duy 
không đem lại sự kết nối có hiệu quả và hiệu lực giữa nhà đầu tư và chính 
quyền địa phương. Tiếp đến, những can thiệp hành chính phi thị trường do 
quan niệm quản lý dựa trên sự thuận tiện không đóng góp được gì cho sự đáp 
5 Vietnam News 05/02/2004 
10 
Lắng nghe và đáp ứng cộng đồng doanh nghiệp 
ứng của chính quyền đối với mong muốn của nhà lại đầu tư. Ngược lại, chính 
những can thiệp hành chính như vậy làm giảm mức độ cam kết của chính 
quyền đối với cộng đồng doanh nghiệp. 
3. Kênh cộng đồng doanh nghiệp tác động đến 
chính quyền địa phương 
Nhờ Đổi mới, cải cách môi trường kinh doanh có những thay đổi đáng kể. 
Tiếp theo chính quyền trung ương, các chính sách ở cấp tỉnh có vai trò quan 
trọng trong việc thay đổi môi trường kinh doanh. Sự thay đổi tăng lên đi kèm 
với những tham vấn mang tính hệ thống giữa chính phủ và và doanh nghiệp 
để giải quyết những hạn chế phát triển doanh nghiệp. Trong bối cảnh như 
vậy, ngày càng có nhiều cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp ảnh hưởng đến 
chính quyền địa phương. Các kênh ảnh hưởng có thể là: 
• Các nhà đầu tư nước ngoài có thể ảnh hưởng đến chính sách của 
chính phủ thông qua một diễn đàn được WB và Bộ Kế hoạch Đầu tư 
tổ chức. Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF, được tổ chức đồng 
thời với Hội nghị các nhà tư vấn) là một diễn đàn chính thức để các 
nhà đầu tư thảo luận với chính phủ về những rào cản kinh doanh. 
VBF tổ chức hai năm một lần, trong đó nhà đầu tư nước ngoài trình 
bày một danh sách các yêu cầu cho sự thay đổi chính sách. Ma trận 
các vấn đề gặp phải với môi trường thể chế khi kinh doanh ở 
Việt Nam được sử dụng để đánh giá nỗ lực của chính phủ trong việc 
giảm bớt những phiền hà đối với cộng đồng kinh doanh. Nhiều chủ 
đề được thảo luận tại diễn đàn này, từ thủ tục hành chính và quyền 
sử dụng đất, đến cơ sở hạ tầng, quy định thuế và thủ tục giải quyết 
tranh chấp. Nỗ lực của chính quyền địa phương không được đánh 
giá một cách hiển nhiên nhưng họ được thông tin về các ma trận 
đánh giá này và uy tín của địa phương trong cộng đồng nhà đầu tư. 
Nhiều nhà đầu tư ở Hà Nội có tham gia diễn đàn này. 
• Từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời, các doanh nghiệp tư nhân trong 
nước có thể tạo ra những ảnh hướng lớn hơn trước đây đến các cơ 
quan chính quyền địa phương. Cũng tương tự như một số tỉnh thành 
khác, Hà Nội có tổ chức riêng để lắng nghe ý kiến từ phía nhà kinh 
11 
Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội 
doanh trong nước. Trung tâm hỗ trợ Doang nghiệp vừa và nhỏ của 
Hà Nội mở cửa từ tháng 10 năm 2005. Chịu sự quản lý của Sở Kế 
hoạch và Đầu tư Hà Nội, trung tâm sẽ đưa ra các đề xuất giúp chính 
quyền thành phố thiết kế và điều chỉnh chính sách phát triển Doanh 
nghiệp vừa và nhỏ. Trung tâm sẽ cung cấp những thông tin, văn bản 
luật cho doanh nghiệp. Không kể đến các tổ chức thuộc chính phủ, 
những hiệp hội doanh nghiệp độc lập hơn đang được phát triển 
nhằm đại diện tiếng nói của doanh nghiệp. VCCI là một tổ chức lớn 
nhất và có uy tín nhất hiện này. Xét về nguồn gốc, VCCI được chính 
phủ thành lập năm 1960 với mục tiêu ban đầu là thúc đầy quan hệ 
kinh tế giữa Việt Nam và các nước khác. Hiện thời, đó là một tổ 
chức “độc lập, phi chính phủ” (như trong quy chế ghi) hoạt động 
trên nguyên tắc tự chủ tài chính nhưng thực hiện các họat động 
“dưới sự hỗ trợ và quản lý của nhà nước Việt Nam” VCCI có 5270 
thành viên trong đó 1349 là DNNN. Cán bộ của VCCI là những 
công chức nhà nước và một phần năm quỹ họat động là do nhà nước 
chi trả. Các hiệp hội khác là: 
• Liên minh hợp tác xã (VCA): Do nhà nước tài trợ và cán bộ mang 
ngạch công chức. VCA có chi nhánh ở tất cả các tỉnh thành bao gồm 
cả Hà Nội. Bất kỳ hợp tác xã nào cũng có thể đăng ký làm hội viên. 
• Hiệp hội công thương (UAIC): Đây là tổ chức đã hoạt động ở phía 
Nam trước thời kỳ giải phóng với tên gọi là Hội công kỹ nghệ gia 
thành phố. Đây là hiệp hội doanh nghiệp đầu tiên có những hội viên 
là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hội đã được tái tổ chức thành 
các tổ chức theo lĩnh vực kinh doanh (hiện thời có 12 tổ chức). 
Trước đây Hiệp hội chỉ bao gồm các doanh nghiệp tư nhân nhưng 
những năm gần đây những doanh nghiệp nhà nước cũng có thể gia 
nhập hội. Hiện thời, Hội có khoảng 1800 thành viên. 
• Câu lạc bộ và hiệp hội doanh nghiệp trẻ: Hoạt động ở nhiều tỉnh 
thành. Phần lớn các hội viên là các doanh nghiệp dân doanh. Hội 
doanh nghiệp trẻ Tp.HCM là hội đầu tiên được thành lập, các hội 
khác được thành lập theo cách phi chính thức. Hội doanh nghiệp trẻ 
Hà Nội được 10 giám đốc doanh nghiệp đầu tiên ở Việt Nam thành 
lập trong những năm đầu 1990. Thoạt đầu nhóm này chủ yếu là để 
gặp gỡ và giao lưu. Dần dần, nhóm trở thành diễn đàn tại đó các 
12 
Lắng nghe và đáp ứng cộng đồng doanh nghiệp 
thành viên có thể trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm cơ hội giao 
thương. Hiện tại, Hội có 390 thành viên 
• Hội doanh nghiệp vửa và nhỏ Hà Nội: Là câu lạc bộ thành lập từ 
năm 1995 ở Hà Nội. Năm 2000, được đổi tên là hội doanh nghiệp 
vừa và nhỏ Hà Nội. 
• Ngoài ra còn có nhiều hiệp hội tổ chức theo ngành trong đó các 
thành viên chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Hiệp hội da giày 
Việt Nam (LEFASO) là một ví dụ. Trước đây hội này là liên minh 
sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ví dụ khác, Hiệp hội Dệt 
Việt Nam (VITAS) lại được thành lập từ 1 tổng công ty? 
Nói tóm lại, sự tương tác giữa chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp vẫn 
mang tính thức bậc tuy nhiên doanh nghiệp có những kênh để tác động vào 
chính quyền địa phương.Tuy nhiên, danh sách nói ở trên chưa cho chúng ta 
biết độ lớn tác động của cộng đồng doanh nghiệp trên thực tế. Hay nói cách 
khác, rất khó xác định và không có thông tin rõ ràng về hiệu quả của những 
kênh này. Tuy nhiên câu hỏi về mức độ tham gia doanh nghiệp vào quá trình 
hoạch định chính sách có thể được lý giải rõ ràng là căn cứ tốt để tìm hi