Tính cách của một người có thể hé lộ cách mà họ tiếp cận với kiến thức, cách
xử lý thông tin, cũng như các động lực thúc đẩy học tập. Nghiên cứu này
hướng tới việc khám phá mối quan hệ giữa tính cách – đánh giá bằng trắc
nghiệm MBTI) và các hình thức học tập của mô hình VAK (bao gồm: hình
ảnh, âm thanh và vận động). Nghiên cứu được thực hiện trên 200 học sinh
THPT, dữ liệu được phân tích và xử lý bằng kiểm tra tương quan Pearson r.
Kết quả cho thấy có một vài mối tương quan được tìm thấy giữa 4 trục tính
cách và các phương thức học tập. Nghiên cứu nhằm mục đích cung cấp cơ sở
để xây dựng phương pháp học tập hiệu quả cho cá nhân và là tài liệu tham
khảo để các tổ chức giáo dục xây dựng các hình thức học tập phù hợp và hiệu
quả với đa dạng các loại tính cách khác nhau trong lớp học.
              
                                            
                                
            
 
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: Thục Anh | Lượt xem: 581 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Mối tương quan giữa tính cách và phương thức học tập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quan đáng kể đối với phương pháp 
học vận động. Cụ thể hơn, những người có xu hướng tính cách hướng nội 
càng tăng thì càng có khả năng họ sử dụng phương pháp học vận động và 
ngược lại. Hướng nội hay hướng ngoại là cách một người hướng nguồn 
năng lượng của mình tới. Những người hướng ngoại thì họ hướng sự chú 
ý và sử dụng năng lượng của mình ra thế giới bên ngoài, thể hiện bằng 
cách hành động như họ hòa đồng và dễ giao tiếp với người khác, họ thích 
chuyển động và hứng thú với những nơi có nhiều kích thích. Ngược lại đối 
với những người hướng nội, họ dè dặt kín đáo hơn, họ dành nhiều thời 
gian để suy nghĩ và hướng chú ý vào bản thân bên trong mình. Những mô 
tả này khá trái ngược với kết quả tìm được của chúng tôi. Đây cũng là một 
vấn đề nên được nghiên cứu mở rộng hơn. Giả thuyết chúng tôi đưa ra cho 
kết quả này là với độ tuổi của mẫu nghiên cứu chúng tôi là học sinh cấp 3, 
họ đang trải qua giai đoạn nhạy cảm về tâm lý, đẩy mạnh việc khám phá 
và định vị bản thân mình. Đồng thời ở độ tuổi này, áp lực từ bạn bè và môi 
trường có thể làm họ cảm nhận chưa chính xác về chính mình. 
Một hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là thang đo phương thức 
học tập được sử dụng đã công bố từ năm 1985 nên khá lỗi thời so với 
phương pháp dạy và học đang được ứng dụng hiện tại. Đồng thời, trong 
quá trình dịch thuật thang đo sang tiếng Việt chúng tôi chưa thể kiểm soát 
được các bối cảnh văn hóa của câu hỏi. Việc này có thể gây ra những kết 
quả có phần sai lệch khi tiến hành phân tích. Chúng tôi đề xuất rằng các 
nghiên cứu trong tương lai nên sử dụng các trắc nghiệm phương thức học 
tập đã được chuẩn hóa, phù hợp với hoàn cảnh xã hội hiện nay hơn, cũng 
như kết hợp thêm những mô hình phương pháp học tập để có cái nhìn 
toàn diện hơn về các mối liên hệ giữa các nét tính cách và phương thức 
học tập. 
657
Ngoài ra, do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp trên địa 
bàn Quảng Nam nên nghiên cứu chuyển sang khảo sát trực tuyến thay vì 
yêu cầu người tham gia thực hiện hai bài test tại một địa điểm như chúng 
tôi đã dự tính. Điều này tồn tại nhược điểm là không kiểm soát được sự 
tập trung, mức độ nghiêm túc, tỉnh táo, thời gian và cách người tham gia 
trả lời câu hỏi. Do đó, những nghiên cứu sau này nên kiểm soát người làm 
khảo sát, bằng cách sắp xếp và kiểm soát được không gian và thời gian 
đồng nhất cho mẫu. 
V. KẾT LUẬN
Sau khi hoàn thành các bước phân tích dữ liệu của đề tài nghiên cứu 
này, chúng tôi đã trả lời cho câu hỏi nghiên cứu đặt ra ban đầu: “liệu có 
mối quan hệ tương quan nào giữa các dạng tính cách trong trắc nghiệm 
MBTI và phương thức học tập VAK không?”.
Phân tích dữ liệu chỉ ra kết quả có mối tương quan yếu giữa trục tính 
cách “giác quan và trực giác” và “phương thức học tập bằng thị giác. Con 
số tương quan được thể hiện là vào khoảng 3% giữa những cá nhân có tính 
cách “giác quan và trực giác” với “học tập bằng thị giác”. Bên cạnh đó, mối 
tương quan giữa phương thức học tập này và trục tính cách “hướng nội và 
hướng ngoại” không được tìm thấy. Bên cạnh đó, phân tích tương quan 
pearson cũng cho thấy mối tương quan yếu giữa trục tính cách “nguyên 
tắc và linh hoạt” và “phương thức học bằng âm thanh” và có tương quan 
vào khoảng 2%. Tương tự cũng không tìm thấy mối tương quan nào giữa 
trục tính cách “hướng nội và hướng ngoại” với cách “học tập bằng âm 
thanh”. Mặt khác, chúng tôi tìm thấy mối tương quan yếu giữa trục tính 
cách “hướng nội và hướng ngoại” và “phương thức học bằng vận động”. 
Tuy nhiên, dữ liệu cho thấy có mối quan hệ tương quan trung bình giữa 
trục tính cách “nguyên tắc và linh hoạt” với “phương thức học bằng vận 
động” và chúng tôi cũng thấy được mối tương quan này là vào khoảng 
5.8% những người nằm trong trục tính cách “hướng nội và hướng ngoại” 
sẽ học tập theo “phương thức vận động”. Có khoảng 6% những người có 
nét tính cách trong trục “giác quan và trực giác” học tập chủ đạo bằng 
phương thức “vận động” và 13% người có trục tính cách “nguyên tắc và 
linh hoạt” sẽ học tập chủ đạo bằng phương thức “vận động”. Cuối cùng, 
658
chúng tôi không tìm thấy số liệu mang tính ý nghĩa cho trục tính cách “lý 
trí và tình cảm” với “phương thức học tập bằng vận động”.
Tóm lại, không có bất kỳ một cách tiếp cận học tập nào có thể phù 
hợp hết tất cả mọi người. Mỗi người chúng ta đều có những khả năng riêng 
biệt khác nhau (các nét tính cách khác nhau), vì vậy phương pháp học tập 
nên được thiết kế riêng biệt cho từng cá nhân để có thể mang lại hiệu quả 
tốt nhất. Nghiên cứu về vấn đề dự đoán phương thức học tập dựa trên trắc 
nghiệm tính cách MBTI của chúng tôi bước đầu đã đóng góp một phần 
nhỏ về lĩnh vực tâm lý giáo dục cho khoa học và thực tiễn ở Việt Nam. Về 
mặt khoa học, những nghiên cứu về chủ đề này chưa được thực hiện và 
mở rộng, nhóm nghiên cứu mong muốn mở ra hướng đi mới và tạo tiền đề 
cho những nghiên cứu cùng chủ đề về sau trên cùng khách thể hoặc khác 
khách thể. Về mặt thực tiễn, kết luận của đề tài mong muốn đóng góp một 
phần ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của lực lượng giáo dục đến thế hệ học 
sinh trong tương lai và đưa ra phương pháp giảng dạy phù hợp. Bên cạnh 
đó, việc học sinh biết được phương pháp học tập và nét tính cách của mình 
cũng giúp họ dễ dàng hơn trong học tập và phát triển bản thân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ha, T. T. K. (2013). Tâm lý học phát triển. NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
Blickle, G. (1998). Personality traits, learning strategies, and performance. 
European Journal of Personality, 10(5), 337-352. 
Brownfield, K. M. (1993). The Relationship between the Myers-Briggs Personality 
Types and Learning Styles. Educational Resources Information Center. 
https://eric.ed.gov/?id=ED381577
Cohen, A. D. (1996, July). Second language learning and use strategies: Clarifying 
the issues. Paper presented at the Symposium on Strategies of Language 
Learning and Use, Seville, Spain, December 13-16, 1994.
Cooper, S. E., & Alan, M. (1991). MBTI learning style-teaching style discruencies. 
Educational and Psychological Measurement. https://journals.sagepub.
com/doi/10.1177/0013164491513021.
Daoussis, L. & McKelvie, S. J. (1986). Musical preferences and effects of music on 
a reading comprehension test for extraverts and introverts. Percept. Mot. 
Skills 62, 283-289. doi: 10.2466/pms.1986.62.1.283 
659
Duff, A., Boyle, E., Dunleavy, K., & Ferguson, J. (2004). The relationship between 
personality, approach to learning and academic performance. Personality 
and Individual Differences, 36(8), 1907-1920. https://doi.org/10.1016/j.
paid.2003.08.020
Holt, J. T., Ghormoz, J., Sung, Y. J., White, M. W., & Szarek, J. L. (2015). Medical 
Student Benefit from Learning Objectives Correlates to Specific Myers-
Briggs Types. Medical Science Educator, 25(3), 249-254. https://doi.
org/10.1007/s40670-015-0133-7
Jackson, C., & Lawty-Jones, M. (1996). Explaining the overlap between personality 
and learning style. Personality and Individual Differences, 20(3), 293-300. 
https://doi.org/10.1016/0191-8869(95)00174-3
Furnham, A., and Allass, K. (1999). The influence of musical distraction of varying 
complexity on the cognitive performance of extroverts and introverts. Eur. 
J. Pers. 13, 27-38. doi: 10.1002/(sici)1099-0984(199901/02) 
Furnham, A., Jackson, C. J. & Miller, T. (1999). Personality, learning style and 
work performance. Personality and Individual Differences, 27(6), 1113-
1122. 
Lawrence, G. (1991). People Types & Tiger Stripes: A Practical Guide to Learning 
Styles (2nd ed.). CAPT. 
Lehmann, J. and Seufert, T. (2017). The Influence of Background Music on 
Learning in the Light of Different Theoretical Perspectives and the Role of 
Working Memory Capacity. doi: 10.3389/fpsyg.2017.01902
Lepke, P. J. (1991). Psychological type and preferred learning styles of institutional 
advancement officers: an initial study using the Myers-Briggs Type 
Indicator in three geographic areas. Digital Repository. Published. https://
doi.org/10.31274/rtd-180813-9291
Melvin, J. (2013). UR Research. Personality Type as an Indicator of Learning Style. 
Published. 
Miller, A. (1991). Personality Types, Learning Styles and Educational 
Goals. Educational Psychology, 11(3-4), 217-238. https://doi.
org/10.1080/0144341910110302 
Myers, I. B. (1998). Introduction to Type: A Guide to Understanding Your Results 
on the MBTI Instrument (6th ed.). Cpp, Inc. 
Persky, A. M., Henry, T., & Campbell, A. (2015). An Exploratory Analysis of 
Personality, Attitudes, and Study Skills on the Learning Curve within a 
Team-based Learning Environment. American Journal of Pharmaceutical 
Education, 79(2), 20. https://doi.org/10.5688/ajpe79220
660
Pittenger, D. J. (2005). Cautionary comments regarding the Myers Briggs Type 
Indicator. Consulting Psychology Journal: Practice and Research, 57, 210221. 
doi:10.1037/10659293.57.3.210 
Seyal, A., Siau, N. Z., & Suhali, W. S. H. (2019). Evaluating Students’ Personality 
and Learning Styles in Higher Education: Pedagogical Considerations. 
International Journal of Learning, Teaching and Educational Research, 
18(7), 145-164. https://doi.org/10.26803/ijlter.18.7.10
Soles, C., & Moller, L. (2001). Myers Briggs Type Preferences in Distance Learning 
Education. International Journal of Educational Technology. 
The jamovi project (2021). jamovi. (Version 2.0.0) [Computer Software]. 
Retrieved from https://www.jamovi.org
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 moi_tuong_quan_giua_tinh_cach_va_phuong_thuc_hoc_tap.pdf moi_tuong_quan_giua_tinh_cach_va_phuong_thuc_hoc_tap.pdf