Mở đầu: Vi phẫu ngày càng được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực y khoa: khâu nối chi sau chấn
thương trong chấn thương chỉnh hình, nối các mạch máu của các vạt tự do trong phẫu thuật tạo hình, phục hồi
ống dẫn trứng hoặc ống dẫn tinh trong sản khoa cũng như các lĩnh vực khác như ngoại thần kinh,ngoại niệu,
nhãn khoa, tai mũi họng Do đó, việc thành lập các đơn vị vi phẫu, cả về thực nghiệm cũng như lâm sàng ngày
càng cấp thiết. Kĩ thuật vi phẫu cần được huấn luyện thành thạo tại các trung tâm thực nghiệm trước khi tiến
hành trên bệnh nhân. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có nhiểu các trung tâm thực nghiệm vi phẫu để hỗ trợ các
nhà ngoại khoa hoàn thiện kĩ năng vi phẫu.
Mục tiêu: Đưa ra một số hướng dẫn đề nghị để xây dựng mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu
thuật từ mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm đào tạo và huấn luyện các kĩ năng căn bản.
Đối tượng – Phương pháp: Thống kê mô tả hoạt động các lớp thực nghiệm vi phẫu căn bản (chuần bị
phòng thí nghiệm, kính, dụng cụ cần thiết, kĩ thuật khâu nối vi phẫu, đánh giá học viên).
Kết quả: Chúng tôi đã đào tạo được tất cả 175 học viên: 45 học viên đào tạo 40 giờ và 130 học viên đào tạo
20 giờ. Số học viên nối thông sau 30 phút 37/45 (82,22%) học viên đào tạo trong 40 giờ và 103/130 (79,23%.)
đào tạo trong 20 giờ. Mô hình các lớp thực nghiệm vi phẫu cơ bản với chi phí không quá tốn kém và không yêu
cầu nhiều dụng cụ phức tạp, chỉ cẩn kính hiển vi và một số dụng cụ vi phẫu. Do đó,việc triển khai các phòng thí
nghiệm thực nghiệm vi phẫu có thể thực hiện ở các trung tâm thực nghiệm của các trường đại học và các đơn vi
phẫu ở bệnh viện.Nhận thức và kĩ thuật vi phẫu là các nhân tố quyết định cần được hoàn thiện trước khi bước
vào phòng mổ bằng cách luyện tập một cách thường xuyên tại các phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu
              
            Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ  317
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH  
THỰC NGHIỆM VI PHẪU THUẬT 
Cái Hữu Ngọc Thảo Trang*, Nguyễn Anh Tuấn* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Vi phẫu ngày càng được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực y khoa: khâu nối chi sau chấn 
thương trong chấn thương chỉnh hình, nối các mạch máu của các vạt tự do trong phẫu thuật tạo hình, phục hồi 
ống dẫn trứng hoặc ống dẫn tinh trong sản khoa cũng như các lĩnh vực khác như ngoại thần kinh,ngoại niệu, 
nhãn khoa, tai mũi họng Do đó, việc thành lập các đơn vị vi phẫu, cả về thực nghiệm cũng như lâm sàng ngày 
càng cấp thiết. Kĩ thuật vi phẫu cần được huấn luyện thành thạo tại các trung tâm thực nghiệm trước khi tiến 
hành trên bệnh nhân. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có nhiểu các trung tâm thực nghiệm vi phẫu để hỗ trợ các 
nhà ngoại khoa hoàn thiện kĩ năng vi phẫu.  
Mục tiêu: Đưa ra một số hướng dẫn đề nghị để xây dựng mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu 
thuật từ mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm đào tạo và huấn luyện các kĩ năng căn bản.  
Đối  tượng – Phương pháp: Thống kê mô tả hoạt động các  lớp thực nghiệm vi phẫu căn bản (chuần bị 
phòng thí nghiệm, kính, dụng cụ cần thiết, kĩ thuật khâu nối vi phẫu, đánh giá học viên). 
Kết quả: Chúng tôi đã đào tạo được tất cả 175 học viên: 45 học viên đào tạo 40 giờ và 130 học viên đào tạo 
20 giờ. Số học viên nối thông sau 30 phút 37/45 (82,22%) học viên đào tạo trong 40 giờ và 103/130 (79,23%.) 
đào tạo trong 20 giờ. Mô hình các lớp thực nghiệm vi phẫu cơ bản với chi phí không quá tốn kém và không yêu 
cầu nhiều dụng cụ phức tạp, chỉ cẩn kính hiển vi và một số dụng cụ vi phẫu. Do đó,việc triển khai các phòng thí 
nghiệm thực nghiệm vi phẫu có thể thực hiện ở các trung tâm thực nghiệm của các trường đại học và các đơn vi 
phẫu ở bệnh viện.Nhận thức và kĩ thuật vi phẫu là các nhân tố quyết định cần được hoàn thiện trước khi bước 
vào phòng mổ bằng cách luyện tập một cách thường xuyên tại các phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu. 
Kết luận: Ngày nay, các đơn vị vi phẫu ngày càng đóng vai trò quan trọng cả trong thực nghiệm và lâm 
sàng. Mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu đào tạo các kĩ năng vi phẫu cơ bản như chúng tôi mô tả có 
thể dễ dàng triển khai ở các các trung tâm thực nghiệm của các trường đại học và các đơn vi phẫu ở bệnh viện. 
Từ khoá: vi phẫu cơ bản, phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu, vi phẫu, đào tạo 
ABSTRACT 
SUGGESTED GUIDE FOR SETTING UP AN EXPERIMENTAL MICROSURGICAL LABORATORY 
Cai Huu Ngoc Thao Trang, Nguyen Anh Tuan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 317 ‐ 322 
The title of research: Nowadays, microsurgery is commonly used for the re‐implantation of limbs or fingers 
after traumatic amputation, to  free  flaps  in reconstructive plastic surgery,  for the rechanneling of vas deferens 
and uterine tubes, and in specialized fields such as neurosurgery, urologists, ophthalmology, orthopedics and oto‐
rhino‐laryngology. Thus, the organization of a microsurgery unit, both in experimental and clinical level, is very 
important. The microsurgical  skills  should  be  first mastered  in  the  lab  before  being  employed  in  the  clinical 
practice. However,  in Vietnam,  there  is  actually no Experimental Microsurgery Center  that  can  support  the 
surgeons  to  improve microsurgical skills. So, we apply Experimental Microsurgery Center with  the  first aim: 
* Bộ môn PT TH‐TM ĐHYD TP. HCM và khoa TH‐TM BV ĐHYD 
Tác giả liên lạc: BS Cái Hữu Ngọc Thảo Trang ĐT: 0908 947 817 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 318
training the basic skill of microsurgery. 
Background  –Objectives:  The  goals  of  this  article  is  to  provide  suggested  guide  for  setting  up  a 
Experimental Microsurgical  laboratory  and  to  review  basic microsurgical  skills  using  synthetic  and  animal 
models. 
Method:  Describe  logistically  the  Based Microsurgery  training  courses  (Set  up  an Microsurgery  Lab, 
Suture Technique, and Evaluation Microsurgical Skills) at Experimental Surgery Center of Ho Chi Minh City 
University of Medicine and Pharmacy from2009 to 2013 
Results: We have 175 trainees  : 45 trainees of basic course 40 hours and 130 trainees of basic course 20 
hours.  Evaluation  the  patency  of  microvascular  anastomosis  at  30minutes:  37/45  (82.22%)  and  103/130 
(79.23%) well done. Establishing an Experimental Microsurgical Laboratory needs not be expensive and does not 
require  a  lot  of  elaborate  equipment  beyond  an  adequate  operating  microscope  and  select  microsurgical 
instruments. So the microsurgical lab has to be applied at the Experimental Surgery Centers of University and in 
Microsurgery Units of the hospitals. Cognitive and technical competency in microsurgery, that are essential keys 
before entering  the operating room are established  through repeated practice  in anExperimental Microsurgical 
Laboratory. 
Conclusion: Nowadays, Microsurgery Unit, both  in  experimental and clinical  level, plays an  important 
role. The model Experimental Microsurgical Laboratory  that we  describe  could  be  implemented  easily  in  the 
Experimental Surgery Centers of University and Microsurgery Units of the hospitals. 
 Keywords: Microsurgical, Microsurgical Experimental Laboratory, Microsurgery, training 
MỞ ĐẦU 
Vi  phẫu  thuật  (VPT),  là  thuật  ngữ  chỉ  các 
phẫu  thuật  (PT)  đòi hỏi phải  sử dụng  các  loại 
kính  phóng  đại  (kính  lúp,  kính  hiển  vi  phẫu 
thuật) và các dụng cụ nhỏ, tinh vi để thực hiện 
phẫu thuật trên các cấu trúc giải phẫu nhỏ (kích 
thước khoảng 1mm): thần kinh, mạch máu  
Kỉ  nguyên  vi  phẫu  bắt  đầu  bằng  kĩ  thuật 
“triangulation”của A.Carrel  vào  năm  1902. Sau 
đó  là  hàng  loạt  các  bước  tiến: Nylen  bắt  đầu 
những  phẫu  tích  đòi  hỏi  sự  chính  xác  cao  độ 
trên thỏ năm1921(2), Jacobson và Suarez khâu nối 
mạch máu  bằng  kính  hiển  vi  năm1960,  Chen 
khâu  nối  cánh  tay  đầu  tiên  1963,  Tamai  và 
Komatsu nối thành công ngón tay cái năm 1968 
và Cobbet  nối  thành  công  ngón  chân  cái  năm 
1969(3). Hiện nay, VPT còn chú trọng hướng phát 
triển  các  loại  vạt  nhằm  mục  đích  tái  tạo  các 
khuyết hổng khác nhau của cơ thể. 
Công  nghệ  khoa  học  phát  triển  hỗ  trợ  rất 
nhiều cho các phẫu thuật viên vi phẫu nhưng kĩ 
năng bóc tách cùng kĩ năng khâu nối của phẫu 
thuật viên vẫn giữ vai  trò quyết định sự  thành 
công của VPT.Nghĩa  là muốn VPT  thành công, 
các  phẫu  thuật  viên  VP  phải  thường  xuyên 
luyện  tập để nhuần nhuyễn kĩ năng của mình. 
Mặt khác, VPT ngày càng được phổ biến  trong 
nhiều  lĩnh vực phẫu  thuật khác nhau. Do vậy, 
nhu  cầu  thành  lập  các phòng  thí nghiệm  thực 
nghiệm vi phẫu càng được đạt ra.  
Việt Nam hiện tại phẫu thuật viên VPT vẫn 
còn thiếu và chưa có các trung tâm đào tạo cũng 
như huấn luyện kĩ năng vi phẫu một cách chính 
quy. Chúng  tôi mô  tả  thống kê  lại  các  lớp  tập 
huấn thực nghiệm vi phẫu căn bản chúng tôi đã 
thực  hiện  tại  Trung  tâm  thực  nghiệm  ĐH  Y 
Dược  TP  HCM  nhằm  đưa  ra  một  mô  hình 
phòng  thí nghiệm  thực nghiệm vi phẫu  có  thể 
phổ biến dễ dàng tại các trung tâm thực nghiệm 
trường đai học và các đơn vi VP các bệnh viện 
nhằm  tạo điều kiện cho các phẫu  thuật viên có 
thể luyện tập kĩ năng vi phẫu thường xuyên. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu 
Kính hiển vi – Kính lúp 
Chúng  tôi  có 6 kính hiển vi vi phẫuvới  độ 
phóng  đại  x6  ‐  x16  (Operation  Microcope): 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ  319
China 106132; Takaci OM ‐ 05 (Japan); Mega ‐ L ‐ 
0970  (Japan);  Seto  ‐  SEL  ‐  0990  (Japan);  Phaco 
Leica  ‐  M  ‐  690  (Germany);  và  OPTO  – 
OPTIKON. 
Kính hiển vi của người hướng dẫn có nối với 
màn hình  ti vi bên ngoài để học viên có  thể dễ 
dàng theo dõi các thao tác của người hướng dẫn. 
Chúng  tôi  bố  trí  làm  việc  theo  nhóm. Mỗi 
nhóm gồm 2 học viên. Khi  thực hành,  lần  lượt 
từng học viên sẽ đóng vai trò mổ chính‐ sử dụng 
kính hiển vi để bóc  tách và khâu nối, học viên 
còn lại mang kính lúp x3.5 phụ mổ. 
Hình 1: Kính hiển vi – Kính lúp – Dụng cụ vi phẫu 
Dụng cụ 
Mỗi  bộ  dụng  cụ  cho mỗi  nhóm  học  viên 
gồm: banh  tự động, cán dao số 7, kéo Westcott 
cong, kép vi phẫu thẳng, kéo Metzenbaunm, kéo 
Steven, nhíp cong, nhíp thẳng, nhíp không mấu 
cong, nhíp không mấu thẳng, nhíp không mấu, 
nhíp có mấu, Bulldog cong, Bulldog thẳng, kẹp 
mang  kim  thẳng,  kẹp  mang  kim  cong,  kẹp 
Hartman thẳng, kẹp Hartman cong. 
Các dụng cụ vi phẫu cần đươc sử dụng và 
bảo quản một cách kĩ  lưỡng. Sau khi  sử dụng, 
các dụng cụ vi phẫu cần được ngâm, lau rửa nhẹ 
nhàng, để khô, bọc đầu bảo vệ bằng bọc nhựa. 
Các dụng cụ hổ trợ: lưỡi dao, ống tiêm, kim 
luồn,  gạc,  băng  keo,  nón,  mask,  bàn  mổ  cho 
chuột. 
Heparin  pha  nước muối  sinh  lí  theo  tỉ  lệ 
5000UI/500ml,  gây  mê  chuột  bằng  Ketamine 
Hydroclorid  10ml  với  liều  0.25ml/100g  chuột, 
gây  tê  tại  chỗ  bổ  sung  bằng  Lidocaine  2% 
40mg/2ml  
Môi trường thực nghiệm 
Cần  tạo  ra  sự  thoải mái  tuyệt  đối  cho  học 
viên vì  để  có  được  các  thao  tác vi phẫu  chuẩn 
xác  cần  sự kiên nhẫn  trong  thời gian dài  cũng 
như sự luyện tập thường xuyên. 
Học viên phải sử dụng thành thạo kính hiển 
vi: chọn độ phóng đại phù hợp cho từng thao tác 
để mắt nhìn rõ nhất.  
Kĩ thuật khâu nối 
Độ khó của kĩ  thuật vi phẫu  căn bản  được 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 320
nâng lên từng bước như sau: 
Ngày 1: thực hiên các thao tác khâu trên gant 
với chỉ 7.0. 
Ngày 2: thực hiện các thao tác khâu nối trên 
cuống rốn người với chỉ 8.0. 
Ngày 3: thực hiện các thao tác khâu nối trên 
động mạch cảnh chuột với chỉ 9.0. 
Ngày 4: thực hiện các thao tác khâu nối trên 
động mạch cảnh chuột với chỉ 10.0. 
Ngày 5: thực hiện các thao tác khâu nối trên 
động mạch  cảnh  chuột  với  chỉ  10.0  (đánh  giá 
cuối đợt huấn luyện). 
Sau khi bọc lộ động mạch cảnh chuột, chuẩn 
bị miệng nối kẹp giữ bằng Bulldog, học viên sẽ 
tiến hành khâu nối  tận  ‐  tận  từ  6‐8 mũi khâu. 
Hai mũi khâu đầu tiên có thể theo phân bố ỏ vị 
trí 0o‐180 o hoặc 0o‐1200. 
Chúng  tôi  tổ  chức  được  2 mô  hình  lớp  vi 
phẫu căn bản gồm: lớp vi phẫu căn bản định kì 
hàng năm 40 giờ  cho  tất  cả  các học viên  trong 
nước và nước ngoài, chứng chỉ vi phẫu căn bản 
cho lớp định hướng tạo hình thẩm mỹ 20 giờ. 
Đánh giá học viên 
Kĩ năng của học viên được đánh giá  thông 
qua thao tác trong suốt quá trình học và kết quả 
nối  thông nối cuối cùng. Mỗi học viên nộp bài 
thu hoạch về khoá huấn luyện. 
Đánh giá sự  thông nối của miệng nối ngay 
sau khi nối và 30 phút sau khi nối xong. 
KẾT QUẢ 
Chúng  tôi có 175 học viên  đã  tham dự  lớp 
thực  nghiệm  vi  phẫu  căn  bản  với  số  dụng  cụ 
tiêu hao như sau:  
Bảng 1: Thống kê vật tư tiêu hao trên mỗi học viên 
Vật tư Đơn vị Tiêu hao cho 45 học viên 40 giờ 
Trung bình 1 học 
viên 40 giờ 
Tiêu hao cho 130 
học viên 20 giờ 
Trung bình 1 
học viên 20 giờ
Chỉ premilene 7-0 sợi 51 1,13 172 1,32 
Chỉ premilene 8-0 sợi 91 2,02 180 1,38 
Chỉ premilene 9-0 sợi 345 7,67 410 3,15 
Chỉ premilene 10-0 sợi 60 1,33 201 1,55 
Khâu da chỉ soir sợi 93 2,07 120 0,92 
Lưỡi dao cái 137 3,04 265 2,04 
Ống tiêm ống 395 8,78 590 4,54 
Kim luồn cây 175 3,89 482 3,71 
Gant hộp (50 đôi/ hộp) 50 1,11 45 0,35 
Gạc Gói (05 miếng/ gói) 125 2,78 350 2,69 
Băng keo cuộn (12 cuộn/ hộp) 31 0,69 59 0,45 
Nước muối chai 14 0,31 28 0,22 
Thuốc Heparin lọ 6 0,13 10 0,08 
Thuốc Ketamin lọ 42 0,93 62 0,48 
Thuốc Lidocain hộp 100 ống/ hộp) 4 0,09 7 0,05 
Nón cái 140 3,11 307 2,36 
Mask hộp (50 cái/ hộp) 14 0,31 18 0,14 
Dung dịch sát khuẩn chai 8 0,18 13 0,10 
Chuột con 221 4,91 290 2,23 
Số học viên nối thông khi đánh giá 37/45 học 
viên đào  tạo  trong 40 chiếm 82,22% và 103/130 
chiếm 79,23%. 
BÀN LUẬN 
Qua  thực  tế  triển  khai  mô  hình  thực 
nghiệm  vi  phẫu  tại  Trung  tâm  thực  nghiệm 
ĐH  Y  Dược  TP  HCM  2009  ‐2013  chúng  tôi 
nhận thấy rằng mô hình thực nghiệm vi phẫu 
triển khai để đào tạo kĩ năng vi phẫu căn bản 
không quá  tốn kém và có  thể  triển khai ở các 
trung tâm thực nghiệm của các trường đại học 
cũng như các đơn vị vi phẫu tại các bệnh viện 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ  321
để  tạo  điều  kiện  cho  các  phẫu  thuật  viên  vi 
phẫu thường xuyên tập luyện. 
Các dụng cụ vi phẫu và các  loại vật tư đơn 
giản, phổ biến chúng tôi sử dụng trong mô hình 
khá tương đồng với các nước  trên  thế giới như 
Akanksha Mehta and Philip S Li và  cộng  sự(7), 
Diogo Almeida Lima và cộng sự(5), hay Martins 
PNA, Montero EFS và cộng sự(6) đã tổng kết. 
Theo Leung CC và cộng sự(4) tổng kết về mô 
hình đào tạo và huấn luyện vi phẫu toàn cầu để 
đưa ra một mẫu mô hình thống nhất chung toàn 
thế  giới  dựa  trên  cơ  sở  dữ  liệu  của  PubMed, 
MEDLINE (Ovid) và EMBASE 
(Ovid) được công bố trong vòng 20 năm qua 
(1992‐2012) phối hợp  với  thông  tin  Internet  và 
khảo sát trên giảng giảng viên và học viên tham 
gia vào mô hình đảo tạo vi phẫu khắp 6 châu lục 
với  27  trung  tâm  và  39  hoá  học,  có  2  loại mô 
hình đào  tạo VPT. Loại A, đào  tạo vi phẫu căn 
bản trong 20 – 40 giờ, học viên sẽ thực hành làm 
quen bước đầu  trên các  loại mô hình nhân  tạo 
như găng tay, silicone dạng ống hoặc dạng tấm. 
Sau đó, họ viên được khâu nối các động mạch 
lớn  hơn  1mm  như  động  mạch  chủ  và  động 
mạch cảnh của chuột. Ngoài ra các loại mô động 
vật cũng có thể được sử dụng: cổ gà, động mạch 
cảnh chuột bảo quản lạnh hay động mạch vành 
của heo. Loại động vật sống thường sử dụng để 
thực  nghiệm  thường  gặp  nhất  là  chuột  chiếm 
90%. Hầu hết  các  khoá huấn  luyện  đào  tạo  kĩ 
năng nối tận – tận cho học viên, ngoài ra có thể 
bố sung thêm các khái niệm nối tận ‐ bên, ghép 
tĩnh mạch, nối  thần kinh ngoại biên  cũng như 
chuyển vạt.  
Trong mô hình mô tả, chúng tôi dùng găng 
tay, cuống rốn người và chuột 250 – 350g để  là 
phương tiện đào tạo cho học viên và huấn luyện 
chủ  yếu  kĩ  năng  nối  tận  –  tận. Khi  thực  hiện 
khâu nối trên gant bằng Premilene 7.0, học viên 
bước đầu  làm quen với kính và các dụng cụ vi 
phẫu. Với  kính  hiển  vi  vi  phẫu,  học  viên  học 
cách tự chỉnh kính các độ phóng đại khác nhau 
để thuận tiện nhất trong các bước thao tác. Học 
viên  trong  vai  trò  người  phụ  sẽ  làm  quen  với 
kính lúp với độ phóng đại x 3.5. Các đường rạch 
trên gant gồm các đường ngang và đường chéo 
để  làm quen với  thao  tác  trên dụng cụ vi phẫu 
và chỉ. Đa số các học viên gặp nhiều khó khăn 
do chưa quen với dụng cụ vi phẫu và kính hiển 
vi cũng như kính lúp. Các thao tác bằng tay khi 
sử dụng dụng  cụ vi phẫu không  đúng dễ mỏi 
tay và thao tác không chính xác. Đến buổi thực 
tập thứ 2 trên cuống rốn: tách độnh mạch cuống 
rốn và nối tận tận. Học viên đã quen dần với các 
dụng  cụ  vi  phẫu  nên  thao  tác  gọn  gàng  hơn 
chúng  tôi  cho  học  viện  dùng  chỉ  nhỏ  hơn 
Premilene 8.0. Buổi thực tập thứ 3 và thứ 4 tiến 
hành bóc tách và khâu nối mạch máu trên chuột. 
Học  viên  được  hướng  dẫn  gây  mê  bắng 
Ketamine, gây tê tại chỗ bổ sung bằng Lidocaine 
2%  và  bóc  tách  độnh  mạch  cảnh  trên  chỉ 
Premilene 9.0 và 10.0. Khi sủ dụng Premilene 9.0 
và  10.0, học viên không  chú ý dễ  làm mất  chỉ 
khâu. Các thao tác của học viên trong quá trình 
bóc tách nếu không chú ý có thể đề lên bụng của 
chuột trong thời gian dài có thể làm cho chuột tử 
vong trước khi khâu nối xong mạch máu, sẽ khó 
đánh giá kết quả thông nối. 
 Theo kết quả đánh giá cuối cùng thì tỉ lệ nối 
thông  của  các  học  viên  theo  khoá  học  40  giờ 
(82,22%) cao hơn các các học viên theo khoá học 
20 giờ (79,23%). Cần có nhiều nghiên cứu hơn để 
chứng minh  thời gian  luyện  tập  ảnh hưởng  rõ 
rệt lên kĩ năng vi phẫu của phẫu thuật viên. 
Với mô hình đào tạo vi phẫu nâng cao, thời 
gian yêu cầu từ 12‐1950 giờ, linh động theo học 
viên. Nội  dung  của  khoá  học  vẫn  là  tiếp  tục 
nhuần nhuyễn các kĩ năng vi phẫu căn bản và 
thực hành  thêm một  số kĩ năng nâng  cao như 
nối tai thỏ, chuyển vạt bẹn với bó mạch thượng 
vị nông hoặc bó mạch đùi làm nơi nhận, và các 
kĩ thuật vi phẫu chuyên biệt cho nam khoa, sản 
khoa hay ngoại thần kinh. 
Các  lớp  đào  tạo  thực nghiệm vi phẫu  có  3 
cách đánh giá: một là đánh giá không chính thức 
chủ yếu dựa vào cảm giác chủ quan của giảng 
viên về học viên, hai  là đánh giá  thông nối sau 
30 phút đến 2 giờ và ba là đánh giá tắc muộn sau 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 322
12‐24 giờ. Hơn 75% các mô hỉnh huấn  luyện vi 
phẫu đơn giản type A có đánh giá không chính 
thức. Với mô  hình  của  chúng  tôi,  kĩ  năng  của 
học viên được đánh giá thông qua thao tác trong 
suốt quá trình học và kết quả nối thông nối cuối 
cùng. Mỗi học viên nộp bài  thu hoạch về khoá 
huấn  luyện. Đánh giá  sự  thông nối  của miệng 
nối  ngay  sau  khi  nối  và  30  phút  sau  khi  nối 
xong. 
Hiện  nay,  chúng  ta  có  thế  đánh  giá  chính 
thức kĩ năng của học viên qua bảng điểm thống 
nhất toàn cầu global rating scale (GRS), dựa trên 
kĩ thuật thực hiện vả thới gian thực hiện. 
Với các mô hình nhân tạo găng tay, silicone 
dạng ống hoặc dạng  tấm có  lợi điểm  là dễ vận 
chuyển  nhưng  lại  bị  giới  hạn  vể  thời  gian  sử 
dụng và mức  độ  thực  tế khi  thực  tập. Với mô 
hình động vật sống là chuột, học viên sẽ có cản 
nhận như  trong một cuộc mổ  thật sự và có  thể 
kiểm  tra khà năng  thông nối vì  có hiện  tượng 
đông cầm máu  tương đối giống như  trê người. 
Tuy nhiên vấn đề sử dụng chuột sẽ phải đối mặt 
với các vấn đề đạo đức Russell. 
Burch  3  R  của  “Replacement,  Refinement 
and Reduction”  ‐  ʺ  thay  thế,  sàng  lọc  và  giảm 
thiểuʺ việc sử dụng các mô hình động vật sống 
trong  các  nghiên  cứu(1). Hiện,  chuột  chúng  tôi 
thực hiện trong mô hình có thông qua hội đồng 
của nhà  trường và  tất  cả những  con  chuột  sau 
thí nghiệm đều được khâu da và xử lí tôn trọng 
và cẩn thận. 
Tuy  nhiên  chúng  tôi  nhận  thấy  rằng  cần 
hoàn  thiện  hơn  nữa mô  hình  thực  nghiệm  vi 
phẫu trên để nâng cao hơn nữa chất lượng trong 
cũng như  sau quá  trình  đào  tạo. Chúng  tôi  sẽ 
hoan thiện sớm giáo trình thực nghiệm vi phẫu 
gồm bài giảng và video để học viên có thể thuận 
tiện nắm bắt kĩ thuật nhanh hơn, tốn ít thời gian 
hơn. Đồng  thời với giáo  trình vi phẫu  căn bản 
như vậy có thể hỗ trợ được học viên từ xa khi tự 
luyện  tập một mình  sau  khoá  huấn  luyện  kết 
thúc. Chúng tôi cũng đã lên kế hoạch để tổ chức 
những lớp huấn luyện các lớp vi phẫu nâng cao.  
KẾT LUẬN 
Xây  dựng  mô  hình  thực  nghiệm  vi  phẫu 
phuc vụ đào tạo các kĩ năng vi phẫu căn bản cho 
các  nhà  ngoại  khoa  mang  tính  khả  thi  cao: 
không quá  tốn kém và  có hiệu quả  rõ  rệt, nên 
được  triển  khai  tại  các  trung  tâm  phẫu  thuật 
thực nghiệm của đại học Y khoa vá các đơn vị vi 
phẫu của các bệnh viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Baumans V (2004). Use of animals  in experimental research: 
an ethical dilemma? Gene Ther.11:64‐66. 
2. Ferreira MC (2005). Microcirurgia reconstrutiva: a história da 
microcirurgia no Brasil.  In: Bijos P, Zumiotti AV, Rocha  JR, 
Ferreira  MC,  eds.  Microcirurgia  reconstrutiva.  São  Paulo: 
Atheneu;516. 
3. Galvão MSL(1985).The role of reconstructive microsurgery in 
cancer surgery.In: Fifth Congress of the European Section of 
the International Confederation for Plastic and Reconstructive 
Surgery.Stockholm, Sweden. 
4. Leung  cc et al  (2013).Towards a Global Understanding and 
Standardisation of Education and Training  in Microsurgery. 
Arch Plast 40:304‐311. 
5. Lima  DA  et  al.(2012).Laboratory  training  program  in 
microsurgery at  the National Cancer  Institute. Rev Bras Cir 
Plást 27(1):141‐9. 
6. Martins  PNA,  Montero  EFS  (2006).Organization  of  a 
microsurgery laboratory Acta Cirúrgica Brasileira ‐21 (3):187‐
189.  
7. Mehta A, Li PS (2013). Male infertility microsurgical training. 
Asian Journal of Andrology 15(1): 61–66. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014