Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 484
MỘT SỐ NHẬN XÉT BAN ĐẦU VỀ CẤP CỨU  
CHẤN THƯƠNG TRƯỚC BỆNH VIỆN VÀ HỒI SỨC CHẤN THƯƠNG 
NHÂN 111 TRƯỜNG HỢP TỬ VONG TẠI KHOA CẤP CỨU BỆNH VIỆN 
CHỢ RẪY 
Tôn Thanh Trà*, Phạm Thị Ngọc Thảo** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Chấn thương là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở lứa tuổi từ 17‐44. Công tác cấp cứu 
chấn thương cần một hệ thống đồng bộ từ cấp cứu tại hiện trường, cấp cứu trên đường vận chuyển, hồi sức tại 
khoa cấp cứu và các phẫu thuật, thủ thuật chấm dứt sự chảy máu. Trong điều kiện hệ thống cấp cứu của Việt 
Nam chưa phát triển đồng bộ, có nhiều vấn đề cần cải thiện. 
Mục tiêu nghiên cứu: Nhận xét ban đầu tình hình cấp cứu chấn thương trước bệnh viện và hồi sức chấn 
thương tại khoa cấp cứu‐ Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân chấn thương được ghi nhận tử vong tại khoa cấp cứu 
từ 1/12/2012‐31/5/2013. Phương pháp: Hồi cứu, mô tả hàng loạt ca.  
Kết quả: Có 111 bệnh nhân chấn thương được ghi nhận tử vong tại khoa cấp cứu. Chỉ có 73 % bệnh nhân 
chấn thương có sử dụng hệ thống cấp cứu trước khi vào bệnh viện Chợ Rẫy trong đó chỉ có 16,7 % bệnh nhân 
vào viện trong tình trạng ổn định.Tỉ lệ được đặt nội khí quản là 80 %, dịch truyền hồi sức sốc là 39,4 % với 
dung dịch ban đầu là Natriclorua 0,9 %. Quy trình hồi sức chấn thương tại khoa cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy đã 
có nhưng chưa được tuân thủ tốt và cần được cập nhật, huấn luyện thường xuyên cho các nhân viên cấp cứu. 
Kết luận: Hệ thống cấp cứu chấn thương trước bệnh viện còn nhiều bất cập. Các kỹ năng cơ bản về hồi sức 
chấn thương như dịch truyền, nội khí quản, đường truyền trung tâm vẫn chưa được thực hiện đầy đủ ở các 
tuyến điều trị. Quy trình hồi sức chấn thương tại khoa cấp cứu bệnh viện Chợ rẫy đã có nhưng chưa được áp 
dụng thống nhất trong khoa. 
Kiến nghị: Cần có chương trình đào tạo về cấp cứu chấn thương cho các tuyến, kể cả cấp cứu trên đường 
vận chuyển và quy trình hồi sức cấp cứu chấn thương thống nhất. 
Từ khóa: Cấp cứu trước bệnh viện, hồi sức chấn thương, khoa cấp cứu 
ABSTRACT 
INITIAL ASSESSMENTS OF PRE‐HOSPITAL CARE AND TRAUMA RESUSCITATION VIA  
111 CASES OF TRAUMA PATIENTS DECEASED AT EMERGENCY DEPARTMENT 
CHỢ RẪY HOSPITAL 
Tôn Thanh Tra, Pham Thi Ngoc Thao  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 484 ‐ 489 
Background: Trauma is the leading cause of death at 17‐44 years old in the world. The trauma care should 
be  combinated  well  bettwen  pre  hospital  care,  trauma  resuscitation  and  definitive  care.  In  Vietnam,  the 
emergency system for trauma care is still not lined and need to be improved. 
Objectives:  Initial  assessment  of  pre  hospital  care  for  trauma  patients  and  trauma  resuscitation  in 
* BV Chợ Rẫy, ** ĐHYD TP HCM * Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: ThS. Tôn Thanh Trà   ĐT: 0903673451  Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình  485
emergency department‐ Cho Ray hospital.  
Method: Retrospetive, case series. 
Result: 111 trauma patients deceased at emergency department, in which 73 % had perhospital care, 16.7 % 
to Cho  ray  hospital  in  stable  condition. Tracheal  intubation  achieved  80%,  IV  fluid  resuscitaion  39,4 %  in 
prehospital  care with  initial  fluid  is natriclorua 0,9 %. The  emergency department has  standard protocol  for 
trauma patients but not all well applied. 
Conclusion: The pre‐hospital care for trauma patients still not unique in all medical levels and should be 
improved. The protocols for trauma resuscitation in emergency department are applying but still not very well.  
Suggestion: A  training  cirriculum  for  trauma  care  should  be  done  and  applied  in  all medical  levels  in 
Vietnam. 
Key words: pre‐hospital care, trauma resuscitation, emergency department 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chấn  thương  là  nguyên  nhân  tử  vong 
thường gặp tại khoa cấp cứu và là nguyên nhân 
tử vong hàng  đầu  ở  lứa  tuổi  từ  17‐44(3). Trong 
giai  đoạn  tại  hiện  trường  và  tại  khoa  cấp  cứu 
phần lớn tử vong là do sốc mất máu không hồi 
phục hoặc chảy máu nội sọ(3). Việc cấp cứu hồi 
sức  bệnh  nhân  chấn  thương  đòi  hởi  sự  khẩn 
trương  từ  hiện  trường,  hồi  sức  tích  cực  trên 
đường  vận  chuyển,  tại  khoa  cấp  cứu  và  phẫu 
thuật thủ thuật cũng như hồi sức trong giai đoạn 
sau đó quyết định sự thành công trong hồi sức 
chấn thương(2). Trong những thập niên qua, nhờ 
sự tiến bộ trong việc cấp cứu trước bệnh viện và 
kỹ  thuật  hồi  sức  chấn  thương  cũng  như  phẫu 
thuật,  thủ  thuật  cầm máu  đã  cứu  sống  được 
nhiều bệnh nhân chấn thương tuy nhiên tỉ lệ tử 
vong trong các trướng hợp đa thương, sốc chấn 
thương vẫn còn rất cao, có khi đến 54 %(6).Trên 
thế giới, hệ thống cấp cứu trước bệnh viện (pre‐
hospital  care)  đã  được  phát  triển  cùng  với  hệ 
thống  hồi  sức  chấn  thương  tương  đối  hoàn 
chỉnh tại các bệnh viện đã cứu sống được nhiều 
trường hợp  đa  thương,  sốc  chấn  thương nặng. 
Trong khi đó, hệ thống cấp cứu trước bệnh viện, 
hồi  sức  chấn  thương  tại  cấp  cứu  ở Việt Nam 
chưa  được  phát  triển  và  còn  nhiều  bất  cập, 
Chính  vì  thế,  chúng  tôi  thực  hiện  nghiên  cứu 
này  để  bước  đầu  đánh  giá  tình  hình  cấp  cứu 
chấn  thương  trước Bệnh  viện Chợ  rẫy  và  việc 
hồi sức chấn thương tại khoa cấp cứu ở BV Chợ 
Rẫy. 
Mục tiêu nghiên cứu 
+ Nhận xét ban đầu tình hình cấp cứu chấn 
thương trước Bệnh viện Chợ rẫy  
+ Sơ bộ nhận xét việc hồi sức chấn thương tại 
khoa cấp cứu Bv Chợ Rẫy  
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiến cứu, mô tả hàng loạt ca  
Đối tượng 
Bệnh  nhân  chấn  thương  tử  vong  tại  khoa 
cấp cứu và cả những trường hợp được khoa cấp 
cứu ghi nhận tử vong trước vào viện. 
Thời gian nghiên cứu 
Từ 1/12/2012‐ 31/5/2013. 
KẾT QUẢ 
Sau 6 tháng thu thập số liệu từ những bệnh 
nhân  chấn  thương  tử  vong  tại  khoa  cấp  cứu 
Bệnh  viện  Chợ  Rẫy,  có  111  bệnh  nhân  được 
khoa cấp cứu ghi nhận  tử vong  trong đó có 25 
bệnh  nhân  được  ghi  nhận  tử  vong  trước  vào 
viện. 
Có 81 bệnh nhân có sử dụng cấp cứu trước 
Bệnh viện Chợ Rẫy, chiếm tỉ  lệ 73 %. Trong đó 
tử vong  trên đường vận chuyển  là 11, vào cấp 
cứu  trong  tình  trạng  sốc  54  và  16  trường  hợp 
huyết áp ổn định.  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 486
Bảng 1: Tình trạng bệnh nhân khi vào cấp cứu  
Tình trạng Số lượng Tỉ lệ % 
Chết trước vào viện 11 13,6 
Sốc 54 66,7 
Ổn định 16 16,7 
Tổng 81 100 
Nguyên nhân chấn thương 
Có 102 trường hợp tử vong do tai nạn giao 
thông,  trong  đó  tai  nạn  khi  đi  xe  gắn  máy 
chiếm 68,2 %. 
Bảng 2: Nguyên nhân tai nạn  
Nguyên nhân Số lượng Tỉ lệ % 
Tai nạn giao thông 102 91,9 
Tai nạn lao động 2 1,8 
Tai nạn sinh hoạt 2 1,8 
Đả thương 3 2,7 
Không rõ 2 1,8 
Tổng 111 100 
Thời gian từ lúc bị tai nạn cho đến khi vào 
cấp cứu  sớm nhất  là 15 phút,  trung bình  là 3 
giờ,  lâu nhất  là 20 giờ  (ghi nhận được  trên 48 
bệnh nhân, số còn lại không nhớ rõ thời điểm 
bị tai nạn). 
Điểm GCS ở những bệnh nhân tử vong tại 
cấp cứu 
Trong 111 bệnh nhân nghiên cứu, có 25 bệnh 
nhân chết trước vào viện, 2 bệnh nhân có GCS 9‐
13  điểm, một bệnh nhân  có GSC  13  điểm,  còn 
phần  lớn  bệnh  nhân  có GCS  3‐8  điểm.  Trung 
bình  số  điểm  GCS  của  những  bệnh  nhân  tử 
vong tại cấp cứu như sau: 
Bảng 3: Điểm Glasgow coma score khi vào cấp cứu  
GCS Số lượng Tỉ lệ % 
Chết trước vào viện 25 22,5 
3-8 83 74,8 
9-12 2 1,8 
13-15 1 0,9 
Tổng 111 100 
Cơ quan tổn thương 
Sọ  não,  cột  sống,  ngực,  vết  thương  tim, 
bụng, khung chậu, tứ chi, đa thương. 
Như  vậy,  phần  lớn  bệnh  nhân  vào  viện 
trong tình trạng mê sâu GCS 3‐8 điểm cần phải 
được  thực hiện  các  thủ  thuật hồi  sức ngay khi 
vào khoa cấp cứu. 
70
40
1
CTSN
CTSN+Khác 
VT tim 
Sơ đồ 1: Tổn thương chính gây tử vong  
Tổn  thương chỉ yếu  là chấn  thương  sọ não 
và  các  tổn  thương  phối  hợp  như  tứ  chi,  ngực 
bụng, ngực hoặc đa chấn thương. 
Chỉ số  ISS  trung bình  trên 86 bệnh nhân  là 
38,67, phân bố như sau: 
Bảng 4: Chỉ số ISS  
Điểm số lượng Tỉ lệ % 
Chết trước vào viện 25 22,5 
9-16 0 0 
16-24 3 2,7 
25-40 51 45,95 
> 40 32 28,8 
Tổng 111 100 
Tuy  nhiên,  phần  lớn  bệnh  nhân  ở  khoảng 
gần 40 điểm tức khả năng không thể sống sót.  
Cấp cứu trước bệnh viện  
Số bệnh nhân  được  đặt nội khí quản  là  56 
trên tổng số bệnh nhân phải đặt nội khí quản 70 
(Có điểm Glasgow < 9), chiếm tỉ lệ 80%.  
Tỉ  lệ  sử dụng dịch  truyền  của  tuyến  trước 
chiếm: 69/81= 85,18% trong đó: Natriclorua 0,9% 
chiếm 89% Ringer lactate 6,1%. 
Bảng 5: loại dịch truyền được sử dụng ở tuyến trước  
Loại dịch Số lượng Tỉ lệ 
Natriclorua 0,9 % 72 89,0 
Ringer’s lactate 5 6,1 
Khác 4 4,9 
Tổng 81 100 
Trong 54  trường hợp  sốc,  có 18 bệnh nhân 
được truyền >= 1000 ml dịch của tuyến trước, số 
còn  lại 36 bệnh nhân  được  sử dụng <= 500 ml 
dịch tinh thể.  
Toàn bộ bệnh nhân được truyền qua đường 
tĩnh mạch ngoại biên, không có trường hợp nào 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình  487
được đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm. 
Bảng 6: Số bệnh nhân được đặt nội khí quản và sử 
dụng dịch truyền  
Biến Số lượng Tổng bệnh nhân 
cần làm 
Tỉ lệ %
Đặt NKQ 56 70 80 
Sốc 18 54 33,3 
Có sử dụng  thuốc giảm đau: 21/81  (25,9 %) 
trong  đó: nhóm opioide  2/21  (9,5 %, giảm  đau 
non‐steroides  19/  21  (90,5 %),  không  60/81  (74 
%). 
65
19
2
None 
NAIDS
Opioide
Biểu đồ 2: Sử dụng thuốc giảm đau  
SAT (Serum anti tetanie): 2/81 trường hợp. 
Đường  truyền  tĩnh mạch  trung  tâm  không 
được thực hiện ở những bệnh nhân chấn thương 
cho  dù  bệnh  nhân  được  sử  dụng  nhiều  dịch 
truyền ở tuyến trước.  
Cố định xương gãy: Phần lớn các bệnh nhân 
có chảy máu ngoài có được băng cầm máu với 
phương pháp đơn giản và nẹp cố định băng nẹp 
gỗ từ các cơ sở y tế tuyến trước.  
Hồi sức tại cấp cứu 
Nội khí quản: Tất cả các bệnh nhân vào viện 
có GCS < 9 điểm đều được đặt nội khí quản cấp 
cứu nếu chưa có nội khí quản của tuyến trước.  
Đường  truyền  ngoại  biên:  100  %  bệnh 
nhân có  sử dụng  đường  truyền ngoại biên với 
dung dịch ban đầu là dịch tinh thể mà phần lớn 
là  dung  dịch Natriclorua  0,9 %,  chỉ  có  38,3 % 
được sử dụng dung dịch Ringer’s  lactate và có 
sử dụng dung dịch keo kết hợp. 
Tinh thể 53/86, tinh thể và keo 33/86. 
53
33
NS
RL
Biểu đồ 3: Các loại dịch dùng khi hồi sức  
Đường  truyền  trung  tâm:  8/86 bệnh nhân 
sau khi được hồi sức với 1000 ml dịch tinh thể 
ban đầu trong 30 phút không hiệu quả, số còn 
lại do  tình  trạng quá nặng,  tiên  lượng không 
thể sống sót nên không thực hiện các thủ thuật 
hồi sức thêm. 
Có  42/86  bệnh  nhân  được  làm  siêu  âm  tại 
cấp cứu, kết quả như sau: 
Bảng 7: Kết quả siêu âm bụng cấp cứu  
Kết quả siêu âm Số lượng Tỉ lệ % 
Bình thường 30 71,4 
Dịch ổ bụng 10 23,8 
Dịch màng phổi 1 2,3 
Dịch màng tim 1 2,3 
Tổn thương tạng đặc kèm 4 9,5 
Chỉ có 3 bệnh nhân (3,5 %) bệnh nhân có làm 
khí máu động mạch,  trong đó 1  trường hợp có 
tình  trạng  toan  máu  rất  nặng  pH<  7,02,  hai 
trường hợp còn lại không đo được pH (< 6,9) với 
lượng  BE  cũng  rất  thấp,  không  hiển  thị  được 
trên kết quả khí máu động mạch. 
CT scan, X quang chỉ thực hiện được ở một 
số bệnh nhân có tình trạng huyết động ổn định 
sau  hồi  sức,  còn  phần  lớn  trường  hợp  không 
thực hiện được các xét nghiệm chẩn đoán hình 
ảnh  ngoài  khoa  cấp  cứu  do  tình  trạng  huyết 
động  bệnh  nhân  không  ổn  định,  không  được 
phép rời khỏi khoa cấp cứu hoặc  tiên  lượng  tử 
vong gần. 
BÀN LUẬN 
Cấp cứu trước bệnh viện  
Là một phần quan trọng trong chuỗi cấp cứu 
bệnh nhân chấn  thương. Việc cấp cứu ngay  tại 
hiện trường với các tiêu chí A,B,C,D,E và hồi sức 
tích cực bằng dịch truyền đem lại hiệu quả sống 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 488
còn cho bệnh nhân chấn thương(5). Hệ thống cấp 
cứu  trước  bệnh  viện  trên  thế  giới  được  hình 
thành từ những năm 1960 đầu tiên ở Mỹ khi mà 
vai trò của đội cấp cứu tại hiện trường được xem 
là một phần quan  trọng  trong  chuỗi  cứu  sống 
bệnh nhân chấn thương(8). Cho đến nay hệ thống 
cấp cứu trước bệnh viện ở Mỹ, Châu Âu, Úc và 
các nước phát  triển  đã hoàn  thiện  từ hệ  thống 
con  người,  trang  thiết  bị,  thông  tin  liên  lạc  
như một phòng hồi sức lưu động. Cùng với nó 
là những quy trình hồi sức chấn thương tại các 
khoa cấp cứu được áp dụng chặt chẽ cho bệnh 
nhân  chấn  thương.  Tuy  nhiên,  cho  đến  nay, 
chấn thương vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây 
tử vong ở lứa tuổi 15‐44 tuổi(3). Ở các nước đang 
phát  triển như Việt Nam, phần  lớn các nguyên 
nhân chấn thương vẫn là do tai nạn giao thông 
mà phổ biến vẫn là xe gắn máy(8). Việc cấp cứu 
trước  bệnh  viện  nói  chung  và  cấp  cứu  chấn 
thương nói riêng chưa phát triển một cách có hệ 
thống,  mặc  dù  có  sự  cố  gắng  từ  phía  chính 
quyền, các tổ chức phi chính phủ cũng như cộng 
đồng nhưng vẫn chưa hình thành được một hệ 
thống  cấp  cứu  trước  bệnh  viện  để  có  thể  đáp 
ứng  được  nhu  cầu  số  lượng  nạn  nhân  chấn 
thương không thuyên giảm theo thời gian. 
Ngày nay, những nghiên  cứu về hồi  sức 
chấn  thương  đã  chứng minh  rằng việc hồi  sức 
bằng dịch  truyền ngay  tại hiện  trường và  thời 
điểm vào cấp cứu đã cải thiện tỉ lệ sống còn cho 
bệnh nhân chấn thương(4). Việc sử dụng 1000 ml 
dịch tinh thể ban đầu trong 30 phút cho những 
bệnh nhân sốc chấn thương đã được đưa vào các 
hướng dẫn hồi sức và dung dịch  lựa chọn ban 
đầu  là Ringer’s  lactate(3) hoặc những dung dịch 
tinh thể cân bằng trong thời gian gần đây. Dung 
dịch Natriclorua  0,9 %  được  chứng minh  làm 
toan  máu  do  tăng  chlor,  nên  không  được 
khuyến  cáo  sử dụng  là dung dịch  đầu  tay  trừ 
khi không có sự chọn lựa khác(1). Các dung dịch 
tinh  thể cân bằng có  thành phần gần giống với 
huyết tương được chứng minh tính hiệu quả và 
an  toàn  trên  thực nghiệm nhưng cần có những 
thử  nghiệm  lâm  sàng  lớn  để  chứng minh  và 
chưa  được  đưa  vào  các  hướng  dẫn  chính 
thống(1)..Trong  khi  đó,  đến  89,6 %  bệnh  nhân 
trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi được hồi 
sức  ở  tuyến  trước và 61,6 % khi váo khoa  cấp 
cứu bằng dung dịch natriclorua 0,9 %. Điều đó 
chứng  tỏ  việc  thực  hiện  quy  trình  hồi  sức  sốc 
chấn thương vẫn chưa được áp dụng đầy đủ ở 
các tuyến y tế. 
Để  tranh  thủ  thời gian vàng  trong cấp cứu, 
khoa cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy được trang bị 
những máy móc, trang thiết bị phục vụ công tác 
hồi  sức  nhất  là  các  trường  hợp  chấn  thương 
nặng,  đa  thương,  sốc  chấn  thương.  Tại  đây, 
chúng  tôi  có  siêu  âm  cấp  cứu  đánh giá nhanh 
bệnh nhân chấn thương (quy trình FAST), chúng 
tôi có máy X quang kỹ thuật số, có máy CT Scan 
cho hình  ảnh nhanh qua hệ  thống mạng phục 
vụ cấp cứu. Khoa cấp cứu có khu vực hồi sức, có 
quy trình hồi sức chấn thương và quy trình thực 
hiện  ưu  tiên  các  kết  quả  xét  nghiệm  cấp  cứu, 
cung  cấp máu,  quy  trình  hội  chẩn  đa  chuyên 
khoa dưới sự chủ  trì của Bác sĩ  trực  trưởng hệ 
ngoại. Ngoài  ra,  các  Bác  sĩ  cấp  cứu  thực  hiện 
thành thục các thủ thuật hồi sức như đặt nội khí 
quản,  đặt  catheter  tĩnh  mạch  trung  tâm,  đặt 
huyết  áp  động mạch  xâm  lân,  thực  hiện  liệu 
pháp  hướng  tới  đạt  đích  sớm.  Tuy  nhiên, 
phần lớn những bệnh nhân tử vong tại khoa cấp 
cứu vào viện  trong  tình  trạng quá nặng, chỉ số 
ISS cận kề 40 thuộc nhóm không thể cứu sống và 
vào viện trong tình trạng mê sâu, GCS 3‐8 điểm 
và phần  lớn nguyên nhân  tử  vong  là do  chảy 
máu nội sọ và sốc mất máu không hồi phục  là 
hai nguyên nhân được ghi nhận trong y văn(7).  
Việc  sử  dụng  thuốc  giảm  đau  cũng  chưa 
được thực hiện thường quy trong cấp cứu chấn 
thương. Chỉ một  số  bệnh  nhân  26 %  được  sử 
dụng thuốc giam đau mà phần lớn 91,6 % là các 
thuốc giảm đau kháng viêm không steroides. 
Các  nguyên  tắc  về  hồi  sức  chấn  thương 
được  thực hiện khá  tốt  tại khoa  cấp  cứu,  tuy 
nhiên vấn đề sử dụng dung dịch  tinh  thể ban 
đầu trong hồi sức sốc chấn thương, vấn đề sử 
dụng  thốc vận mạch và các yếu  tố  tiên  lượng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình  489
trong  số  chấn  thương  vẫn  chưa  được  thống 
nhất. Do sự quá tải thường xuyên tại khu vực 
hồi sức khoa cấp cứu nên không phải  lúc nào 
các  quy  trình  hồi  sức  sốc  chấn  thương  cũng 
được  thực  hiện một  cách  nghiêm  ngặt.  Tuy 
nhiên, nhờ ứng dụng tốt các quy trình có sẵn, 
kết hợp  các kỹ năng  lâm  sàng và  các  chuyên 
khoa, chúng tôi đã cứu sống thành công nhiều 
trường hợp sốc chấn  thương, đa chấn  thương 
nặng tưởng chừng như không thể cứu sống. 
KẾT LUẬN 
‐ Chỉ có 73% bệnh nhân chấn  thương có sử 
dụng hệ thống cấp cứu trước khi vào bệnh viện 
Chợ Rẫy  trong đó chỉ có 16,7% bệnh nhân vào 
viện trong tình trạng ổn định. 
‐ Tỉ  lệ  được  đặt nội  khí  quản  là  80%, dịch 
truyền hồi sức sốc là ở tuyến trước là 39,4%. 
‐  Phần  lớn  các  bệnh  nhân  được  hồi  sức  ở 
tuyến trước và tại khoa cấp cứu Bệnh viện Chợ 
Rẫy  với  dung  dịch  tinh  thể  ban  đầu  là 
natriclorua 0,9%. 
‐ Quy trình hồi sức chấn thương tại khoa cấp 
cứu bệnh viện Chợ Rẫy đã có nhưng cần được 
cập nhật và huấn  luyện  thường xuyên  cho  các 
nhân viên cấp cứu.  
KIẾN NGHỊ  
‐ Cần  có  chương  trình  đào  tạo  về  cấp  cứu 
chấn  thương cho các  tuyến, kể cả cấp cứu  trên 
đường vận chuyển.  
‐ Cần  thống  nhất  quy  trình  hồi  sức  chấn 
thương và cập nhật thường xuyên cho các Bác 
sĩ  làm  cấp  cứu và  các Bác  sĩ ngoại khoa, góp 
phần giảm thiểu tỉ lệ tử vong do chấn thương. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adams  HA  (2011),  ʺVolume  and  fluid  replacement  ʺ. 
Medizinische Verlagsgesellschaft mbH, Melsungen. 
2. Cherkas D (2011), ʺTraumatic Hemorrhagic Shock: Advances 
In Fluid Managementʺ. Emergency medicine practice 13(11), 1‐
19. 
3. Fildes  J  (2008),  ʺAdvanced Trauma Life Support  ʺ. American 
College of surgeons committee on trauma Eight edition. 
4. Ganapathy N  (2007),  ʺEnd  Points  in  TraumaManagementʺ. 
Indian Journal of Anaesthesia, 6(51), 479‐485. 
5. Loncarić‐Katusin M, Belavić M, Zunić  J, Gucanin S, Zilić A, 
Korać Z  (2010),  ʺResuscitation of  a polytraumatized patient 
with large volume crystalloid infusions ‐ correlation bettwen 
global and  regional hemodynamics: Case  report  ʺ. Acta Clin 
Croat 49, 335‐341.  
6. Maddirala  S,  Khan  A  (2010),  ʺOptimizing 
hemodynamicsupport  in  septic  shock  using  central  venous 
oxygen saturation.ʺ. Crit care clin, 26, 223‐233. 
7. Mesquida J, Borrat X, Lorente JA, Masip J, Baigorri F (2011), 
ʺObjectives  of  hemodynamic  resuscitation1ʺ. Med  Intensiva., 
35, 499‐508. 
8. Nguyễn Xuân Phúc  (2013),  ʺTình hình  tai nạn giao  thông 5 
tháng đầu năm 2013 ʺ. Ban an toàn giao thông Quốc gia. 
9. Robbins VD (2005), ʺA history of emergency medical services 
and medical  transportation  system  in America  ʺ. Emergency 
medicine and critical care, 4, 1‐6. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014