Giới thiệu: Bệnh do sán lá gan lớn Fasciola gigantica v à Fasciola hepatica 
đang gia tăng và đe dọa sức khỏe cộng đồng và gia súc tại các vùng nhiệt đới, trong 
đó có Việt Nam. 
Mục tiêu: Nghiên cứu tiến hành nhằm ghi nhận và đánh giá các triệu chứng, 
triệu chứng lâm sàng và các thông số cận lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh trên bệnh 
nhân mắc SLGL. 
Phương pháp nghiên cứu: Cỡ mẫu lớn 750 bệnh nhân, đủ tiêu chuẩn đưa vào 
nghiên cứu theo thiết kế một nghiên cứu ngang mô tả. 
Kết quả: Triệu chứng lâm sàng trên bệnh nhân nhiễm Fasciolae rất đặc trưng: 
đau bụng vùng thượng vị và đầu tụy ống mật chủ (96,80%), mỏi cơ dưới vai, nhức 
đầu (98%), mệt lả người (68%), sốtnhẹ (68%), rối loạn tiêu hóa với táo bón và đau 
bụng (14,93%), tiêu chảy, phân lỏng (22,93%), buồn nôn hoặc có nôn (29,87%), dị 
ứng với ngứa hoặc mề đay (65,2%); vàng da và kết mạc mắt (1,47%), suy nhược và 
sụt cân (28%), thiếu máu (3,6%), đặc biệt có hộichứng Hazouhn ở vùng hầu họng 
không nhiều nhưng đáng chú ý (0,93%), các triệu chứng khác hiếm gặp như gan, lách 
to (1,6%); các thông số cận lâm sàng về sinh hóa huyết học không có gì thay đổi, 
ngoại trừ xét nghiệm ELISA 96,4% dương tính, tăng bạch cầu eosin (83,07%), 
95,73% số bệnh nhân tổn thương hệ gan mật qua siêu âm, chủ yếu là gan phải 
(81,33%) trong giai đoạn cấp tính và tổn thương hệ đường mật giai đoạn mạn tính; 
nội soi cho thấy sung huyết niêm mạc dạ dày tá tràng (79,84%) hoặc kèm theo loét 
(82,26%), không tìm thấy trứng trong phân. 
Kết luận: Triệu chứng lâm sàng khó phân biệt với một số bệnh lý tiêu hóa 
hoặc gan mật; thông số cận lâm sàng, đặc biệt FasELISA và bạch cầu eosin và tổn 
thương trên siêu âm rất có giá trị chẩn đoán xác định v à theo dõidiễn tiến bệnh sán lá 
gan lớn.
              
                                            
                                
            
 
            
                 35 trang
35 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1859 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn fasciolaespp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG 
TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM SÁN LÁ GAN LỚN FASCIOLAE SPP. 
TÓM TẮT 
Giới thiệu: Bệnh do sán lá gan lớn Fasciola gigantica và Fasciola hepatica 
đang gia tăng và đe dọa sức khỏe cộng đồng và gia súc tại các vùng nhiệt đới, trong 
đó có Việt Nam. 
Mục tiêu: Nghiên cứu tiến hành nhằm ghi nhận và đánh giá các triệu chứng, 
triệu chứng lâm sàng và các thông số cận lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh trên bệnh 
nhân mắc SLGL. 
Phương pháp nghiên cứu: Cỡ mẫu lớn 750 bệnh nhân, đủ tiêu chuẩn đưa vào 
nghiên cứu theo thiết kế một nghiên cứu ngang mô tả. 
Kết quả: Triệu chứng lâm sàng trên bệnh nhân nhiễm Fasciolae rất đặc trưng: 
đau bụng vùng thượng vị và đầu tụy ống mật chủ (96,80%), mỏi cơ dưới vai, nhức 
đầu (98%), mệt lả người (68%), sốt nhẹ (68%), rối loạn tiêu hóa với táo bón và đau 
bụng (14,93%), tiêu chảy, phân lỏng (22,93%), buồn nôn hoặc có nôn (29,87%), dị 
ứng với ngứa hoặc mề đay (65,2%); vàng da và kết mạc mắt (1,47%), suy nhược và 
sụt cân (28%), thiếu máu (3,6%), đặc biệt có hội chứng Hazouhn ở vùng hầu họng 
không nhiều nhưng đáng chú ý (0,93%), các triệu chứng khác hiếm gặp như gan, lách 
to (1,6%); các thông số cận lâm sàng về sinh hóa huyết học không có gì thay đổi, 
ngoại trừ xét nghiệm ELISA 96,4% dương tính, tăng bạch cầu eosin (83,07%), 
95,73% số bệnh nhân tổn thương hệ gan mật qua siêu âm, chủ yếu là gan phải 
(81,33%) trong giai đoạn cấp tính và tổn thương hệ đường mật giai đoạn mạn tính; 
nội soi cho thấy sung huyết niêm mạc dạ dày tá tràng (79,84%) hoặc kèm theo loét 
(82,26%), không tìm thấy trứng trong phân. 
Kết luận: Triệu chứng lâm sàng khó phân biệt với một số bệnh lý tiêu hóa 
hoặc gan mật; thông số cận lâm sàng, đặc biệt FasELISA và bạch cầu eosin và tổn 
thương trên siêu âm rất có giá trị chẩn đoán xác định và theo dõi diễn tiến bệnh sán lá 
gan lớn. 
ABSTRACT 
Background and objectives: Fascioliasis caused by Fasciola gigantica and 
Fasciola hepatica that are increasing and threating of public health in the tropic areas, 
including of Vietnam. This study carried out to describe and evaluate the clinical, 
laboratory findings, imaging diagnostics in fascioliasis patients. 
Study method: 750 patients with Fascioliasis disease were enrolled in a 
descriptive, cross-sectional study design. 
Results: the major clinical symptoms on these patients: epigastric and 
Chauffard Rivet triangle pain (96.8%), gastrointestinal disturbances: abdominal pain 
plus constipation (14.93%), diarrhea loose stool (22.93%), nausea and/or vomit 
(29.87%), mild fever (68%), headache and subshoulder muscles fatigue (98%), 
malaise (68%), allergic reaction with pruritis and urticaria (65.2%), lose weight 
(28%), mild anemia (3.6%), particular in Hazouhn syndrom (0.93%), rare symptoms 
may be hepatomegaly (1.6%), chest pain, dyspnoea (<1%), jaundice; Laboratory 
findings were positive ELISA test with Fasciola gigantica antigen (96.4%), 
hepatobiliary lesions by ultrasound (95.73%), eosinophilia is the predominant 
indicator (83.07%), mild congestive gastro-duodenal membranous layer by 
endoscopy (79.84%) or congestion accompanied ulcer traces (82.26%) and copro-
examination with Fasciolae egg, all of negative. 
Conclusions: clinical manifestations are indistinguishable from hepatobiliary 
and digestive tract diseases; laboratory parameters and imaging diagnostics, 
especially in FasELISA, eosinophile and liver lesions by ultrasound were very useful 
in positive diagnosis and follow-up fascioliasis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh sán lá gan lớn (SLGL) hiện lưu hành trên 70 quốc gia, trong đó có Việt 
Nam-một bệnh của quá khứ nhưng rất thời sự và đang là một vấn đề y tế công cộng 
quan trọng có xu hướng gia tăng rất nhanh. Tuy bệnh chủ yếu gây bệnh cho gia súc 
(cừu, trâu, bò, lạc đà, dê) và người là vật chủ tình cờ mắc bệnh do tiêu hóa phải ấu 
trùng nằm trong thực vật thủy sinh, uống nước lã có ấu trùng hoặc ăn gan động vật 
còn sống. 
Bệnh SLGL do hai loài Fasciola giagantica và Fasciola hepatica gây ra, tùy 
thuộc vào vùng lưu hành, Việt Nam, nước nhiệt đới với bệnh lưu hành ít nhất 47/64 
tỉnh, thành trong cả nước, bao phủ 15 tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên và 
ven biển. Bệnh biểu hiện với các triệu chứng lâm sàng rất dễ nhầm lẫn với một số 
bệnh lý đường tiêu hóa, hệ gan mật hoặc ngực bụng, gây chẩn đoán và điều trị muộn, 
khiến tổn thương lan rộng và suy tế bào gan, nên việc phát hiện và điều trị sớm bệnh 
này là cấp thiết. 
Để góp phần bổ sung dẫn liệu về các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm 
cận lâm sàng cũng như chẩn đoán hình ảnh (siêu âm, nội soi) cho bệnh sán lá gan 
lớn ở người, giúp cho các nhà lâm sàng, nhất là thày thuốc nội khoa, nhi khoa và 
chuyên ngành truyền nhiễm chẩn đoán, phát hiện sớm và điều trị kịp thời, tránh tử 
vong hoặc suy gan. Chúng tôi tiến hành đề tài: “Đặc điểm lâm sàng và cận lâm 
sàng trên bệnh nhân mắc sán lá gan lớn Fasciola tại khu vực miền Trung - Tây 
Nguyên, 2006-2008”. Nhằm mục tiêu: 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả đặc điểm triệu chứng lâm sàng trên bệnh nhân mắc sán lá gan lớn; 
Đánh giá một số thông số cận lâm sàng về sinh hóa, huyết học, miễn dịch và giá 
trị của chẩn đoán hình ảnh trên bệnh nhân sán lá gan lớn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thời gian & địa điểm nghiên cứu: Từ 01/2006 đến tháng 06/2008, tại Viện Sốt 
rét- KST-CT Quy Nhơn. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân đến khám, điều trị tại Viện Sốt rét- KST-CT Quy Nhơn. 
Thiết kế nghiên cứu 
Theo nghiên cứu ngang mô tả 
Tiêu chuẩn chọn bệnh và loại trừ 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Lâm sàng 
Sốt, đau tức vùng thượng vị-mũi ức, buồn nôn, nôn, đau lan ra hạ sườn (P), 
dắt hoặc xuyên ra sau lưng, ngứa, nổi mày đay, nhức đầu, đau cơ,...). 
Cận lâm sàng 
Tổn thương gan dạng SLGL trên siêu âm, nội soi dạ dày tá tràng; ELISA 
(+) với hiệu giá OD   1 cho kháng nguyên đặc hiệu loài F. gigantica, alkaline 
phosphate tăng, eosinophil cao khi đếm vào thời điểm trước khi điều trị hơn 8% 
hoặc > 440/mm3. Thiếu máu được xác định nếu Hb < 11g/dl (tiêu chuẩn WHO), 
siêu âm, nội soi tiêu hóa. 
Đặc điểm dịch tễ 
Lưu trú một thời gian dài vùng lưu hành, tiếp xúc phân trâu bò, ăn rau thủy 
sinh, gan súc vật sống. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân không biết chữ, câm điếc, rối loạn tâm thần. 
Bệnh nhân có khối u gan nghi ngờ, đang mắc các bệnh cấp tính, bệnh về tim, 
gan, thận, tim mạch hoặc bệnh nhân đang dùng thuốc điều trị giun sán khác. 
Kỹ thuật nghiên cứu 
Tất cả đối tượng đủ tiêu chuẩn được hỏi bệnh, khám lâm sàng, lấy nhiệt độ, 
XN máu, phân về thông số: công thức máu toàn phần (Hb và bạch cầu) men gan 
SGOT, SGPT, Alkalin phosphate, Bilirubine, ELISA xác định HGKT, eosin, siêu âm 
gan mật và xét nghiệm phân theo đúng quy trình kỹ thuật. Để độ tin cậy cao, chỉ một 
người duy nhất hoặc thống nhất cách đọc và chịu trách nhiệm về kết quả của từng XN 
trong suốt quá trình đánh giá. 
Xử lý và phân tích số liệu theo thống kê y sinh học: Số liệu nhập và phân tích 
trên chương trình EPI.INFO 6.04 (CDC, Hoa Kỳ). 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân sán lá gan lớn trước điều trị 
Bảng 1: Triệu chứng và dấu chứng lâm sàng trên bệnh nhân mắc sán lá gan 
lớn 
Bệnh nhân (n = 
750) 
TT 
Triệu 
chứng & 
dấu chứng 
lâm sàng 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
1 
Đau 
thượng vị & 
vùng 
Chauffard- 
726 96,80 
Bệnh nhân (n = 
750) 
TT 
Triệu 
chứng & 
dấu chứng 
lâm sàng 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
Rivet 
2 
Đau 
vùng hạ 
sườn (P) và 
(T) 
417 55,60 
3 
Đau, 
tức vùng 
thượng vị-
Murphy 
330 44,00 
4 
Buồn 
nôn, nôn ói 
224 29,87 
Bệnh nhân (n = 
750) 
TT 
Triệu 
chứng & 
dấu chứng 
lâm sàng 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
5 
Mỏi 
cơ dưới 2 
vai (+nhức 
đầu) 
735 98,00 
6 
Đau 
lan thắt lưng, 
giống đau 
cột sống TL 
598 79,73 
7 
Suy 
nhược cơ 
thể, chán ăn 
420 56,00 
Bệnh nhân (n = 
750) 
TT 
Triệu 
chứng & 
dấu chứng 
lâm sàng 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
8 
Ra 
mồi hôi, mệt 
lả người 
510 68,00 
9 
Sốt 
cao, ớn lạnh 
(có khi rét 
run) 
97 12,93 
Bệnh nhân (n = 
750) 
TT 
Triệu 
chứng & 
dấu chứng 
lâm sàng 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
10 
Sốt 
nhẹ về chiều 
(<380C), 
mỏi toàn 
thân 
525 70,00 
11 
Dị 
ứng (ngứa 
thân mình, 
nổi mẩn, mề 
đay,...) 
489 65,20 
Bệnh nhân (n = 
750) 
TT 
Triệu 
chứng & 
dấu chứng 
lâm sàng 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
12 
Táo 
bón + đau 
bụng 
112 14,93 
13 
Tiêu 
chảy, phân 
nát, sống 
không thành 
khuôn 
172 22,93 
14 
Gan 
to 1-3 cm 
dưới sườn 
(không kèm 
46 6,13 
Bệnh nhân (n = 
750) 
TT 
Triệu 
chứng & 
dấu chứng 
lâm sàng 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
lách to) 
15 
Lách 
to (tổn 
thương cả 
gan và lách) 
12 1,60 
16 
Tức 
ngực, khó 
thở, đau sau
xương ức 
324 43,20 
17 
Ho, 
ngứa và loét 
nhẹ họng 
7 0,93 
Bệnh nhân (n = 
750) 
TT 
Triệu 
chứng & 
dấu chứng 
lâm sàng 
Số 
lượng 
Tỷ lệ 
% 
liên tục* 
18 
Vàng 
da + vàng 
kết mạc mắt 
11 1,47 
19 
Sụt 
cân (thường 
5   3kg) 
210 28,00 
20 
Thiếu 
máu lâm 
sàng (móng 
tay + mắt) 
27 3,60 
Lâm sàng hay gặp nhất là đau thượng vị-mũi ức, tức ra sau lưng và vùng 
Chauffard Rivet, khó tiêu, ngứa và rối loạn tiêu hóa. Ít gặp hơn là gan lách to, tức 
ngực. 
Đặc điểm các thông số sinh hóa, huyết học và miễn dịch học 
Bảng 2: Hiệu giá kháng thể, bạch cầu eosine tính theo phần trăm trước khi 
điều trị 
Ngưỡng hiệu giá kháng thể 
Âm tính OD (1-
1,29) 
OD (1,3-
1,99) 
OD(≥ 2,0) 
Nh
óm 
nghiên 
cứu 
S
L 
% S
L 
% S
L 
% S
L 
%
Số 
ca nghiên 
cứu n = 
750 
2
7 
3,
60 
5
39 
71,
87 
1
27 
16,
93 
5
7 
7,
60 
Tỷ lệ phần trăm bạch cầu eosine 
10% 
Nh
óm 
nghiên 
cứu S
L 
% S
L 
% S
L 
% S
L 
% 
Số 
ca nghiên 
cứu n = 
750 
1
2 
1
,6 
1
15 
15
,33 
1
11 
14
,80 
5
12 
68
,27 
Trước khi điều trị, hiệu giá kháng thể của bệnh nhân chủ yếu OD (1-1,29) 
chiếm 71,87%, đặc biệt có 3,60% âm tính; tỷ lệ eosin lớn >10% chiếm đa số 
(68,27%). 
Bảng 3: Một số đặc điểm cận lâm sàng trên bệnh nhân SLGL trước và sau 
điều trị 
Thông số huyết học và sinh hóa Giá 
trị trước 
khi điều trị 
Range 
10,0-
12,5 
Haemoglonin 
(g/l) 
Mean 
  s 
12,5 
 1,56 
Range 
6,730 
-10,250 
Bạch cầu/mm3 
Mean 
  s 
6,500 
 1,810 
Range 
95-
6256 
Xét 
nghiệm 
công thức 
máu 
Eosinophil/mm3 
Mean 
  s 
652 
  1127 
Xét Alk.phosphatase 
Range 136-
496 
(BT:100-290UI) 
Mean 
  s 
252 
  60,34 
Range 
14 –
90 
SGPT (BT: 5-
34UI) 
Mean 
  s 
6,57 
  19,5 
Range 
17 -
78 
SGOT (BT: 0-
38UI) 
Mean 
  s 
18,90 
  16,9 
Range 
0,35 
– 0,95 
nghiệm 
sinh hóa 
máu 
Bilirubine (BT: 
0,1-1mg/dl) 
Mean 0,63 
  s   0,14 
Range 
5,62 
- 4,43 
Urea (BT: 2,49-
7,47mmol/L) 
Mean 
  s 
4,52 
  1,51 
Range 
86 -
125 
Creatinine (BT: 
53-115mmol/L) 
Mean 
  s 
90,11 
  12,36 
Thông số huyết học và sinh hóa trên bệnh nhân không có thay đổi đáng kể. 
Hình ảnh hệ gan mật qua siêu âm và dạ dày-tá tràng qua nội soi tiêu hóa 
Bảng 4: Đặc điểm tổn thương trên siêu âm của bệnh nhân sán lá gan lớn 
TT VỊ 
TRÍ TỔN 
SỐ TỔN 
THƯƠNG 
Ghi 
chú 
THƯƠNG 
THEO 
GIẢI 
PHẨU 
n 
Tỷ lệ 
(%) 
1 
Nhu 
mô gan 
593 79,07 
2 
Cạnh 
bao Glisson 
của gan 
17 2,27 
3 
Tụ 
máu, dịch 
dưới bao gan 
56 7,47 
4 
Trong 
túi mật (dày, 
khuyết) 
6 0,80 
5 Các 30 4,00 
Có tổn 
thương 
95,73% 
đường mật 
(cả ống mật 
chủ) 
6 
Cả 
nhu mô gan 
và hệ đường 
mật 
16 2,12 
7 
Chưa/ 
không phát 
hiện tổn 
thương 
32 4,27 
Không 
tổn. thương 
4,27% 
Tổng 
cộng 
750 100% 
Tổn thương tập trung nhu mô gan (95,73%), số còn lại nằm ở bao gan và hệ 
đường mật; một tỷ lệ nhỏ không hoặc chưa phát hiện tổn thương (4,27%). 
Bảng 5: Tổn thương nhu mô gan được phân chia theo từng hạ phân thuỳ. 
Chia 
thùy theo 
phân bố 
TM cửa 
Vị 
trí tổn 
thương 
hạ phân 
thùy 
Số 
bệnh 
nhân 
tỷ lệ 
% 
% 
theo thùy 
Thùy 
spigel 
Hạ 
phân thuỳ 
I 
6 0,80 
Hạ 
phân thuỳ 
II 
24 3,20 
Thùy 
trái 
Hạ 
phân thuỳ 
III 
32 4,27 
7.47% 
Thùy 
vuông 
Hạ 
phân thuỳ 
78 10,40 
IV 
Hạ 
phân thuỳ 
V 
98 13,07 
Hạ 
phân thuỳ 
VI 
216 28,80 
Hạ 
phân thuỳ 
VII 
187 24,93 
Thùy 
phải 
Hạ 
phân thuỳ 
VIII 
109 14,53 
81.33 
% 
Trong nhu mô, tổn thương chủ yếu ở gan P (81,33%) hơn gan T (7,47%), 
các ổ tập trung ở hạ phân thùy VI, VII và VIII là chính, ít nhất ở HPT I. 
Bảng 6: Đặc điểm và tính chất hồi âm của tổn thương gan mật 
Đặc 
điểm tổn 
thương và 
tính chất hồi 
âm trong tổn 
thương 
Số 
bệnh 
nhân 
Tỷ lệ 
% 
Chú 
ý 
Nhu 
mô tổn thương 
gan không 
đồng nhất 
659 87,87 
Dày 
vách túi mật 
12 1,60 
Dày 
vách đường 
mật khu trú 
(sán kẹt) 
9 1,20 
Vết 
tăng âm 
không có 
bóng lưng 
có thể 
Fasciolae 
Vết 
hình liềm 
và cần 
phân biệt 
với sỏi. 
Đặc 
điểm tổn 
thương và 
tính chất hồi 
âm trong tổn 
thương 
Số 
bệnh 
nhân 
Tỷ lệ 
% 
Chú 
ý 
Vết 
tăng âm không 
có bóng lưng 
14 1,87 
Tăng 
âm 
(hyperechoic 
lesion) 
26 3,47 
Giảm 
âm 
(hypoechoic 
lesion) 
688 91,73 
Đặc 
điểm tổn 
thương và 
tính chất hồi 
âm trong tổn 
thương 
Số 
bệnh 
nhân 
Tỷ lệ 
% 
Chú 
ý 
Hỗn 
hợp âm 
(mixed echo) 
655 87,33 
Trống 
âm xen kẽ 
(microabscess) 
354 47,20 
Tổn thương nhu mô không đồng nhất (87,87%), giảm âm (91,73%), echo hỗn 
hợp (87,33%), đặc biệt có các hốc dịch (47,20%), tăng âm không đáng kể. 
Bảng 7: Đặc điểm và tính chất tổn thương ở dạ dày tá tràng 
Đặc Số % Chú 
điểm tổn 
thương 
BN ý 
Sung 
huyết niêm 
mạc DD-
TT đơn 
thuần 
99 79,84 
Loét 
dạ dày tá 
tràng đơn 
thuần 
26 20,97 
Loét 
+ sung 
huyết dạ 
dày tá tràng 
102 82,26 
Số 
ca SLGL 
được chỉ 
định 
nội 
soi 124 ca 
Sung huyết niêm mạc (79,84%) hoặc kết hợp loét (82,26%). 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm dấu chứng, triệu chứng và hội chứng lâm sàng ở bệnh nhân 
Triệu chứng toàn thân và hệ tiêu hóa-gan mật 
Qua thăm khám và chẩn đoán 750 ca bệnh mắc SLGL đủ tiêu chuẩn, ghi nhận 
đa số bệnh nhân có triệu chứng hướng về tiêu hóa-gan mật: đau thượng vị mũi ức, 
vùng Chauffard Rivet (96,80%), đau kèm theo mỏi cơ dưới hai bên vai (98%) hoặc/ 
và đau tức từ thượng vị hạ sườn (P) lan ra sau lưng kiểu như đau cột sống thắt lưng 
(79,73%); bên cạnh đó, bệnh nhân còn có cảm giác tức ngực, khó thở, đau sau xương 
ức (43,20%), ra mồ hôi, mệt lả người, sốt nhẹ về chiều lần lượt chiếm tỷ lệ 68%; 
70%; tiếp đến các triệu chứng xuất hiện với tần suất thấp hơn là đau vùng hạ sườn (P) 
và (T) hoặc điểm Murphy (55,60% và 44%), rối loạn nhu động ruột với buồn nôn 
hoặc nôn (29,87%), rối loạn đại tiện dạng táo bón kèm đau bụng (14,93%) hoặc dạng 
đi phân lỏng, phân sệt, không thành khuôn phân (22,93%), sốt cao ớn lạnh là phản 
ứng toàn thân hiếm gặp (12,93%); suy nhược cơ thể và sụt cân nhiều trong một thời 
gian ngắn (56% và 28%). Các triệu chứng trên là hay gặp nhất, số liệu tương tự như 
một số tác giả khác trong nước và thế giới(4,5,7). 
Ngoài các dấu chứng và triệu chứng trên, chúng tôi còn phân tích thấy có biểu 
hiện gan to dưới bờ sườn trung bình 2cm (6,13%) hoặc/ và lách to (nhất là trường hợp 
tổn thương gan kèm theo lạc chỗ ở lách) với tỷ lệ 1,60%; vàng da và vàng kết mạc 
mắt đôi lúc cũng gặp trên lâm sàng với tỷ lệ nhỏ 1,47%. 
Triệu chứng ngoài hệ gan mật 
Biểu hiện dị ứng (nhiều dạng khác nhau, thường là bắt đầu ngứa, nổi mảng 
ngứa và phù trên da, nổi hạt dạng đinh kim hoặc chấm xuất huyết li ti, vị trí hay gặp 
vùng kẽ ngón tay, mạng sườn, cẳng tay, cẳng chân) chiếm hầu hết bệnh nhân đến 
khám đầu tiên (65,20%); một tỷ lệ đặc biệt bệnh nhân có ngứa họng, ho khúc khắc, 
không có đờm (hội chứng Hazouln) và có loét nhẹ thành sau họng chiếm 0,93% trong 
nghiên cứu này, đặc biệt triệu chứng ho và ngứa họng được cải thiện nhanh chóng sau 
điều trị thuốc đặc hiệu(2,7). Thiếu máu lâm sàng cũng gặp với tỷ lệ 3,60%, có lẽ thiếu 
máu do da nhiễm ký sinh trùng, nhất là giun móc hoặc do sán tán huyết(2). 
Đặc điểm các thông số cận lâm sàng và tổn thương trên chẩn đoán hình 
ảnh 
Thông số cận lâm sàng (miễn dịch, huyết học, sinh hóa) 
Xét nghiệm miễn dịch ELISA rất có giá trị trong chẩn đoán bệnh SLGL, hiệu 
giá kháng thể (HGKT) các bệnh nhân vào viện ở ngưỡng OD (1,0-1,29) chiếm chủ 
yếu (71,87%), một số có HGKT cao hơn với OD (1-1,29) hoặc OD (≥ 2,0) là 16,93% 
và 7,60%, nhận xét sơ bộ thì chúng tôi không thấy mức độ bệnh và HGKT tương 
quan; trong nghiên cứu này có 27 (3,60%) trường hợp xét nghiệm ELISA âm tính, 
nhưng biểu hiện triệu chứng lâm sàng rất điển hình, siêu âm có tổn thương, không 
đáp ứng với liệu pháp điều trị khác, nên chúng tôi cũng đưa vào nghiên cứu và khẳng 
định hơn là tiến triển bệnh của bệnh nhân sau điều trị đặc hiệu bằng triclabendazole. 
Điều này hợp lý, bởi trong khu vực Đông Nam Á loài phổ biến là Fasciola gigantica, 
trong đó có Việt Nam, song một vài nghiên cứu gần đây về phân tích hệ gen ty thể và 
hệ gen nhân cho thấy loài SLGL ở Việt Nam là loài lai (L.T.Hòa và cs., 2003) và 
chưa loại trừ là có mặt cả F.hepatica, do vậy khả năng xét nghiệm ELISA (-) trong 
một vài trường hợp là khó tránh khỏi khi chúng ta dùng kit chẩn đoán SLGL có 
kháng nguyên chỉ đặc hiệu loài Fasciola gigantica. 
Bệnh KST nói chung và SLGL nói riêng đều có tỷ lệ eosin tăng cao, nhưng 
trong nghiên cứu này thì một số ca có tỷ lệ eosin dưới 2% (1,6%) và từ 2-8% 
(15,33%); số bệnh nhân có eosin tăng hơn 8% chiếm đa số (83,07%). Sở dĩ không 
phải tất cả mà chỉ có 83,07% có bạch cầu ái toan tăng vì phần lớn số ca vào viện sau 
khi đã dùng thuốc hoặc bệnh đã ở giai đoạn mạn tính nên tỷ lệ eosine vì thế cũng 
không tăng (2,7). 
Trong CTM toàn phần, đáng chú ý bạch cầu eosin và hemoglobine (Hb). 
Trước khi điều trị, 83,07% có tỷ lệ eosin tăng hơn 8%, eosin tăng có thể do tình trạng 
đáp ứng miễn dịch đi cùng với thời điểm mà IgE tăng cao, nhất là giai đoạn xâm 
nhập; trước khi điều trị, một số ca xác định thiếu máu (Hb < 11g/dl), lượng hồng cầu 
thay đổi không đáng kể, nhưng số ca chiếm tỷ lệ rất ít (3,6%), nếu phân tích toàn bộ 
số liệu thì không cho thấy có thiếu máu thật sự, mặt khác các ca thiếu máu lâm sàng 
cũng là những ca thiếu máu trên xét nghiệm (cùng code). Giải thích nguyên nhân 
thiếu máu được đề cập ở trên là do đồng nhiễm KST hoặc tán huyết do giun móc/ 
mỏ(7), tỷ lệ thiếu máu trong nghiên cứu này thấp hơn nhiều với các tác giả khác như 
Boray và cộng sự (49%) hoặc Jiulong và cộng sự (26.3%). Phần lớn thông số alkaline 
phosphatase trên mức bình thường khi nhập viện, điều này biểu hiện sự xơ hóa và tắc 
nghẽn đường mật cấp thời vì bệnh nhân SLGL phần lớn khi phát hiện là bệnh đã ở 
giai đoạn mạn tính hoặc do điều trị không đặc hiệu trước đó, vả lại bệnh SLGL là 
bệnh gây tổn thương cả hệ gan lẫn mật. Cùng với thông số alkaline phosphate, các 
men SGOT và SGPT có giá trị nằm trong giới hạn bình thường, một số ít ca có 
bilirubine huyết thanh tăng nhẹ (vì chèn ép đường mật, bán tắc mật gây vàng da trên 
lâm sàng đồng thời). Riêng thông số ure và creatinin đánh giá trước khi cho dùng 
thuốc điều trị không có thay đổi đáng kể(2). 
Tổn thương gan mật và dạ dày tá tràng qua chẩn đoán hình ảnh 
Siêu âm khảo sát nhu mô gan và hệ đường mật: các hình ảnh bất thường liên 
quan đến nhu mô gan (giai đoạn cấp) hay gặp nhất và tổn thương hệ đường mật (giai 
đoạn mạn tính) với biểu hiện hình ảnh đa dạng, trong đó tổn thương tăng âm hình 
giống chiếc lá hay lưỡi liềm không kèm bóng lưng rất đặc biệt. 
Trong giai đoạn cấp (thời gian mắc bệnh <4 tháng) 
Siêu âm cho thấy 3 loại tổn thương ở giai đoạn cấp. Loại tổn thương thứ nhất 
là hình ảnh nhu mô gan không đồng nhất (87,87%), đôi khi chỉ một ổ tổn thương (chủ 
yếu) với 79,07%, bên cạnh đó còn có dạng tổn thương đi kèm như ở cạnh bao Glisson 
(2,27%), tụ máu hoặc tụ dịch dưới bao gan (7,47%); tổn thương túi mật dưới dạng 
dày lên xơ hóa và khuyết loét nông thành túi mật (0,8%) và các đường mật bị ảnh 
hưởng (4%), đặc biệt ở đây 32 bệnh nhân không phát hiện thấy tổn thương, chiếm 
4,27% (Bảng 4). Các tổn thương nhu mô thường có bờ viền không rõ ranh giới giữa 
nhu mô lành và bệnh đi kèm tính chất tăng, giảm, hợp âm khác nhau: trong đó giảm 
âm chiếm chủ yếu (91,73%), tiếp đến là hợp âm (87,33%) và tăng âm chiếm tỷ lệ ít 
hơn với 3,47%, xen lẫn tính chất tổn thương giảm âm, hợp âm còn có các vùng trống 
âm (dịch) khá nhiều, nhất là các bệnh nhân đến sớm (47,2%) sau khi có triệu chứng. 
Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu tại Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Ai 
Cập(6,7,2,1); khi gặp tổn thương đa dạng thường là microabces đã hoại tử hoặc vừa hoại 
tử vừa tiến triển, có xu hướng lan rộng hoặc quy tụ thành một khối dịch lớn. 
Đặc biệt, tổn thương nhu mô gan thường có nhiều “mắt nhỏ”, dạng nốt, nếu là 
hình ảnh giảm âm hoặc xen kẽ trống âm vừa ở chính giữa thì rất khó phân biệt với các 
dạng abces hay khối tân sinh (neoplasm) nhất là khi đã xuất hiện đặc điểm hoại tử 
trung tâm(4,7). Khi tổn thương nhu mô gan, các thùy và hạ phân thùy (HPT) đều có 
“cơ hội” bị tổn thương, nhưng vị trí gặp ở gan phải (P) là 81,33% nhiều hơn gan trái 
(T) chỉ có 7,47%. Trong một nghiên cứu của Richter và cộng sự cũng cho biết tỷ lệ 
tổn thương gan (P) và (T) lần lượt 92,02% và 6,3%. Giải thích lý do tại sao? Có lẽ do 
cấu trúc giải phẫu và đường ranh giới giữa các HPT thuận lợi hoặc thể tích gan (P) 
lớn hơn rất nhiều so với gan (T) cho nên tần suất bị tổn thương gan (P) vì thế cao hơn. 
Thùy và các HPT được phân chia dựa trên phân bố của TM cửa, TM chủ, rãnh dây 
chằng tròn và rãnh Arantius, tổn thương SLGL thường gặp ở gan (P) nhiều hơn gan 
(T), nếu chia theo vị trí từng HPT thì ở đây chủ yếu gặp ở các HPT (IV) (10,40%), V 
(13,07%), VI (28,80%), VII (24,93%) và VIII (14,53%), hiếm gặp hơn ở HPT Spigel 
(0,8%) và HPT II (3,2%) hay III (4,27%). Bên cạnh đó, giai đoạn cấp tính chúng tôi 
còn thấy tổn thương nhu mô sát bao gan, mặc dù kích thước ổ này rất bé (# 1,2-
1,5cm) nhưng trên lâm sàng bệnh nhân đau rất dữ dội; ngược lại, cho dù kích thước ổ 
tổn thương có đường kính rất lớn, thậm chí đến gần 10cm, song chúng lại nằm trong 
lòng nhu mô thì bệnh nhân lại ít đau hơn hoặc thậm chí không đau. Lý giải về mặt 
giải phẫu thì do trong nhu mô gan dường như không có dây thần kinh nên cảm giác 
đau lại ít hoặc rất mơ hồ và trái lại, vùng bao Glisson tiếp giáp với nhu mô gan lại 
phong phú dây thần kinh cảm giác nên bệnh nhân rất nhạy cảm đau khi có tổn thương 
xâm lấn các vùng này(4). 
Loại tổn thương thứ hai chúng tôi hay gặp trong giai đoạn cấp tính là các 
khoảng trống như “khoang” hoặc có nhánh trông giống đường hầm và dạng tổn 
thương này nhìn rõ nét hơn nếu so sánh và đối chiếu trên phim chụp CT Scanner có 
bơm thuốc cản quang. Đây là những hình ảnh có ngoại vi ngoằn ngoèo, khúc khuỷu 
do quá trình sán di chuyển trong nhu mô gan mà y văn đã đề cập (7,2,1). 
Loại tổn thương thứ ba là một tổn thương nhu mô nhưng sát bao gan, khi hoại 
tử đã vỡ ra bên ngoài được bao gan bọc lại (subcapsular mass), loại ổ này có nguy cơ 
đe dọa vỡ nếu không can thiệp kịp thời (2.27%) mà một số tác giả gọi là 
“pseudohematome”. 
Đôi khi, trong quá trình thăm dò siêu âm, chúng tôi còn phát hiện một số hình 
ảnh ít điển hình hơn: giả u hạt (granuloma), hoại tử có tăng âm ngoại vi, áp xe không 
điển hình hoặc dạng hốc u mạch thể hang (carvenous hemangioma), phần lớn các 
khối này đều tiến triển tốt và trở về như nhu mô bình thường sau điều trị đặc hiệu. 
Sở dĩ 32 trường hợp (4,27%) mà chúng tôi chưa hoặc không phát hiện tổn 
thương trên hệ gan mật mặc dù FascELISA (+), điều này có lẽ do: (1) Giai đoạn 
nhiễm quá sớm để sán tạo tổn thương trên gan mật, chúng chỉ mới tiết ra kháng 
nguyên, nên phản ứng FascELISA (+) và có vài biểu hiện trên lâm sàng ban đầu; (2) 
hoặc vì triệu chứng lâm sàng của bệnh SLGL thường không đặc hiệu và na ná với 
nhiều bệnh lý tiêu hóa khác, đồng thời phản ứng FascELISA có một tỷ lệ nhất định 
cho (+) giả vì có thể phản ứng chéo giữa nó với loài ký sinh trùng hay đơn bào khác 
như Entamoeba histolytica(1,2,6), sán lá phổi Paragonimus westermani(6) hoặc sán 
máng Schistosoma mansoni(2,7) là điều không thể loại trừ, nhất là nước ta ở vùng nhiệt 
đới, lưu hành nhiều bệnh ký sinh trùng, (3) hoặc tổn thương nằm ở những vị trí vượt 
ngoài khả năng thăm dò SA, nên chưa phát hiện được(4). 
Trong giai đoạn mạn tính 
Hình ảnh SA điển hình thường là đa ổ nhỏ, li ti có thể vừa gặp trong nhu 
mô gan vừa gặp trong hệ đường mật (3,13%), cả OMC; nhưng phần lớn là các vệt 
thả nổi (floating) hoặc vết (trace) tăng âm di động bên trong túi mật hoặc OMC mà 
không kèm bóng cản âm (1,87%), có thể đó là sán chuyển động hoặc xác sán chết 
lưu lại (bảng 5). Một dấu hiệu nữa không đặc trưng cho giai đoạn mạn tính là hình 
ảnh dãn, phù nề và dày thành túi mật, đường mật (1,2% và 1,6%) không đồng đều, 
dấu hiệu này cũng thường gặp trong bệ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 44_5193.pdf 44_5193.pdf