Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 88
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA GÂY MÊ PROPOFOL 
KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO CÁC CAN THIỆP  
TIẾT NIỆU NGOẠI TRÚ 
Tạ Đức Luận*, Nguyễn Thị Quý** 
TÓM TẮT 
Mục  đích nghiên cứu: Đánh giá sự hiệu quả và tính an toàn của gây mê propofol KSNĐĐ cho các can 
thiệp ngoại khoa tiết niệu ở bệnh nhân ngoại trú. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả cắt ngang. Từ tháng 4 đến tháng 12/2012, tại khoa PT‐GMHS 
BVĐHYD TP. HCM, 65 BN được lựa chọn cho can thiệp tiết niệu về trong ngày, ASA I/II, được gây mê tĩnh 
mạch với propofol KSNĐĐ, thông khí MTQ, không dùng dãn cơ. Ghi nhận nồng độ đích tại các thời điểm, diễn 
biến của sinh hiệu và cách xử trí. Trong mổ đánh giá độ mê bằng thang điểm PRST, sự hài lòng của PTV bằng 
thang điểm VAS (tính ngược). Tại PHT đánh giá độ an thần của BN bằng thang điểm OAA/S. Tại PHP đánh 
giá sự hài lòng của BN bằng VAS. 
Kết quả: Nồng độ đích (mcg/ml) trung bình lúc mất tri giác: 1,3±0,31 (0,6‐2,0); đặt MTQ: 3,64 ± 0,35(2,6‐
4); trong can thiệp: 3,87 ± 0,37(3‐5); khi HT: 1,18 ± 0,31(0,4‐2,6).Thời gian mất tri giác(giây): 46,02±7,71(34‐
78); thời gian HT(phút): 13,95±5,20(7‐35). Điểm PRST luôn ≤1; sự hài lòng PTV: 9,83±0,52. Điểm OAA/S khi 
về PHT: 5đ 33 ca (50,7%); 4đ 25 ca (38,5%); 3đ 7 ca (10,8%). Sự hài lòng của BN: 0,46±0,82đ. Các phiền nạn: 
tụt HA phải sử dụng ephedrine: 5 ca  (7,7%); mạch chậm: 11ca  (16,9%). Không có  trường hợp nào suy HH 
trong và sau mổ. 
Kết luận: Phương pháp gây mê tĩnh mạch bằng propofol KSNĐĐ với thông khí MTQ dễ sử dụng, có thể 
áp dụng cho các can thiệp tiết niệu trung bình và ngắn, về trong ngày với hiệu quả và an toàn cao. 
 Từ khóa: gây mê tĩnh mạch, kiểm soát nồng độ đích, gây mê ngoại trú, can thiệp tiết niệu 
ABSTRACT 
STUDYING EFFICACY AND SAFETY OF INTRAVENOUS ANESTHESIA WITH TARGET 
CONTROLLED INFUSION PROPOFOL FOR UROLOGICAL PROCEDURES IN OUTPATIENTS 
Ta Duc Luan, Nguyen Thi Quy  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 88 - 94 
Objective:  Studying  efficacy  and  safety  of  intravenous  anesthesia  with  TCI  propofol  for  urologycal 
procedures in outpatients.  
Methods:  Prospective,  descriptive  and  cross‐sectional  study.  From  4/2012  to  8/2012,  at  surgery 
anesthesiology department, university medical centre, 65 patients were selected for ambulatory surgery,by ASA 
I/II  to  undergo  urological  procedures,  received  intravenous  anesthesia with  TCI  propofol,  LMA  ventilation 
without muscle relaxants. The study recorded TCI at different times as well as vital signs and solutions. During 
operation, anesthesia depth was evaluated by PRST,  the satisfaction of practioners was evaluated by VAS  (in 
reverse). In the recovery room, hypnosic was evaluated by OAA/S, and the satisfaction of patients was avaluated 
by VAS 
Result: Mean  target  concentration  (mcg/ml)  at  losing  awareness: 1.33±0.31  (0.6‐2.0); LMA  insertation: 
* Bệnh viện 30/4   ** Viện tim TP. HCM 
Tác giả liên lạc: BS Tạ Đức Luận   ĐT: 0903 953 874    Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa  89
3.64 ± 0.35(2.6‐4);intervene:  : 3.87 ± 0.37(3‐5);recovery: 1.18 ± 0.31(0.4‐2.6);  losing awareness time  (second): 
46.02±7.71  (34‐78);recovery  time  (minute):  13.95±5.20  (7‐35).  PRST  score  allways  stays  below  1;  the 
satisfaction of practioner : 9.83±0.52; OAA/S when arriving at recovery room:5 points for 33 cases ( 50.7%); 4 
points  for25  cases  (38.5%);  3  points  for  7  cases  (10.8%).  The  satisfaction  of  patients: 
0.46±0.82.Complications:blood  pressure  fall  needs  the  use  of  ephedrine:  5  cases  (7.7%);slow  pulse:  11cases 
(16.9%). There was no respiratory failure during and after procedure. 
Conclutions: Intravenous anesthesia with propofol TCI, together with LMA ventilation is easy to use and 
able to apply to medium and short urologycal procedures for outpatients with high efficacy and safety. 
Key words:  intravenous anesthesia, target controlled  infusion(TCI),anesthesia  for outpatients, urologycal 
procedure 
MỞ ĐẦUPhẫu thuật trong ngày (PTTN) được 
Ralph  Water  mô  tả đầu  tiên  vào  năm  1918. 
PTTN mang  lại nhiều  lợi  ích như mức  độ hài 
lòng cao của bệnh nhân, giảm nguy cơ nhiễm 
trùng,  giảm  chi  phí điều  trị cũng 
như giảm được  số  lượng  bệnh  nhân  chờ mổ. 
Trong  chiều  hướng  đó,  gây  mê  hồi  sức 
(GMHS) cũng phát  triển đáng kể để đáp ứng 
kịp thời với nhu cầu phát triển ngoại khoa. Với 
sự  ra  đời  của nhiều loại  thuốc mê mới  có  tác 
dụng  nhanh,  êm  dịu;  nhiều  phương  pháp 
phẫu thuật ít xâm lấn và kỹ thuật GM mới làm 
cho  số  lượng và  tỉ  lệ  của gây mê phẫu  thuật 
ngoại trú không ngừng tăng lên. 
Gây mê  tĩnh mạch kiểm soát nồng  độ đích 
(TCI) được ra đời và phổ biến nhanh ở nước ta 
với nhiều ưu điểm như kiểm soát mê nhanh, an 
toàn,  ổn  định, dự báo  được  thời gian hồi  tỉnh. 
Mặt nạ thanh quản (MNTQ) cũng đang được sử 
dụng rộng rãi với nhiều  tính năng ưu việt như 
kỹ thuật đặt nhanh, không cần dãn cơ, đảm bảo 
thông  khí  tốt,  ít  xâm  lấn.  Sự  phối  hợp 
GMKSNĐĐ với thông khí với MNTQ phát huy 
được  những  ưu  điểm  tinh  tế, mang  lại  sự  an 
toàn và hiệu quả, đặc biệt trong trường hợp gây 
mê cho bệnh nhân ngoại trú.  
Mục đích  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  nhằm 
xác  định  hiệu  quả và tính  an  toàn  của  gây mê 
propofol KSNĐĐ kết hợp với thông khí MNTQ 
trong  các  can  thiệp  ngoại  khoa  về  tiết  niệu  ở 
bệnh nhân ngoại trú. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu 
Tiền cứu, mô tả cắt ngang 
Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh nhân có chỉ  định can  thiêp ngoại 
khoa  tiết niệu,  tuổi  từ 16  đến 70, ASA  I,  II, dự 
kiến  cuộc mổ không kéo dài hơn  90 phút. BN 
được giải thích rõ và tự nguyện đồng ý tham gia 
PTTN trong thời gian từ tháng 4/2012 đến tháng 
8/2012 tại khoa PT‐GMHS bệnh viện Đại Học Y 
Dược TP. HCM. 
Tiêu chuẩn loại trừ  
Bệnh nhân  chống  chỉ  định  đặt MNTQ:  Độ 
mở miệng ≤ 2cm; BN có độ dãn nở phổi giảm, 
bệnh xơ hóa phổi; áp lực đường thở cao hơn 30 
cm H20; có khối u vùng hầu họng; có tiền sử trào 
ngược dạ dày  thực quản, phì  đại  lưỡi, dạ dày 
đầy. Chống chỉ định PTTN: Có bệnh kèm  theo 
nghiêm  trọng  chưa  kiểm  soát  được  (đái  tháo 
đường, hen phế quản,  đau  thắt ngực). Bệnh 
béo phì  có kèm  theo  các hội  chứng về hô hấp 
(suyễn),  tim mạch  (đau  thắt ngực). Bệnh  đang 
điều  trị  với  các  thuốc  có  tác  động  trung  ương 
(IMAO,  thuốc  điều  trị  trầm  cảm)  người  lạm 
dụng  cocaine.  Không  có  người  lớn  chịu  trách 
nhiệm chăm sóc tại nhà sau PT. 
Tiến hành GM 
Sau  khi  có chỉ định  PT,  người  bệnh  được 
khám  tiền mê,  làm  các  xét  nghiệm  tiền  phẫu. 
Giải  thích  cho BN và thân nhân, nhịn  ăn uống 
trước mổ 6 giờ. Tại phòng mổ tất cả bệnh nhân 
được thiết lập đường truyền tĩnh mạch với NaCl 
0,9%. Theo dõi monitor ECG, nhịp tim, huyết áp 
không  xâm  lấn  ,  SpO2, EtCO2.  Sau  đó  tiền mê 
qua  đường  tĩnh mạch  với midazolam  1mg  và 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 90
Fentanyl 1,5 – 2 mg/kg, Lidocaine 1% 0,5 mg/kg. 
Bệnh  nhân  tự  thở  02  100%  với  lưu  lượng 
4lít/phút qua mặt nạ mặt để Sp02 > 95%. Khởi mê 
bằng phương pháp TCI với gài đặt nồng độ đích 
huyết tương (Cp) ban đầu là 6 mcg/ml. Quan sát 
thấy BN không mở mắt khi gọi (mất ý thức), ghi 
nhận nồng độ đích tại não (Ce): nồng độ mất ý 
thức. Nồng độ này sẽ được gài đặt như nồng độ 
hồi  tỉnh dự kiến. Khi BN  có  các dấu hiệu:  sụp 
mi,  hàm  dưới  lỏng,  không  cử  động  và  ngưng 
thở, chúng tôi tiến hành đặt MNTQ, ghi nhận Ce 
tại thời điểm này. Sau khi đặt MNTQ, BN được 
gắn  vào  máy  thở  ,  duy  trì  thông  khí  áp  lực 
dương  kiểm  soát.  BN  được  thế  thở  hoàn  toàn 
qua máy GM với Vt= 8 – 10ml/kg, tần số thở 12 
lần/phút, áp  lực  thông khí < 35 cmH20, duy  trì 
Sp02  >  95%  và EtC02  <  40 mmHg. Lồng ngực 
dãn  nở  cân  xứng,  nghe  thông  khí  đều  2  bên 
phổi. Nồng độ đích Propofol được duy trì trong 
khoảng 2 – 6 mcg/ml tùy theo tình trạng BN và 
giai đoạn PT. Ngưng Propofol khi kết  thúc can 
thiệp. Ghi nhận Ce, mạch, huyết áp, SpO2, EtCO2 
tại  các  thời  điểm:  rạch da,  trong quá  trình  tiến 
hành phẫu thuật, cuối cuộc mổ và hồi tỉnh. 
Đánh  giá  mức  độ  mê  theo  thang  điểm 
PRST của Evans: 
Thông số Giá trị Điểm
HA tâm thu <GTCB+15 0
 <GTCB+30 1
 >GTCB+30 2
Tần số tim <GTCB+15 0
 <GTCB+30 1
 >GTCB+30 2
Mồ hôi Không có 0
 Sờ thấy ẩm ướt 1
 Chảy thành giọt 2
Nước mắt Mắt ướt bình thường 0
 Ướt nhiều 1
 Chảy nước mắt, mí mắt nhắm 2
Khi tần số tim hay huyết áp (HA) tăng trên 
20%  so  với  trị số  ban  đầu  ít  nhất  1  phút được 
xem là chưa đủ độ mê. Xử trí: tăng nồng độ đích 
propofol.  Nếu  HA  tâm  thu  ≤ 80  mmHg  hay 
huyết  áp  trung  bình  ≤ 60 mmHg  xem  như hạ 
HA.  Xử  trí:  giảm  nồng  độ đích  Propofol,  cho 
dịch  chảy  nhanh,  có  thể  tiêm  ephedrine  hay 
dùng thêm Atropine khi có nhịp tim chậm. 
Thang  điểm đánh  giá mức độ  an  thần 
OASS 
Điểm Đáp ứng 
5 Đáp ứng ngay khi được gọi tên với giọng bình 
thường 
4 Ngủ lịm, có đáp ứng khi gọi tên với giọng bình 
thường 
3 Chỉ đáp ứng sau khi gọi tên với giọng to và lặp đi 
lặp lại hoặc cả hai 
2 Chỉ đáp ứng sau kích thích nhẹ hoặc lay gọi
1 Không đáp ứng với kích thích nhẹ hoặc lay gọi
0 Không đáp ứng với kích thích đau
Đánh giá mức độ hài lòng của phẫu thuật 
viên  theo  thang  điểm  VAS  ngược  lại.  0: 
không hài lòng và 10: rất hài lòng. 
Tiêu chuẩn rút MNTQ: BN có trở lại phản xạ 
nuốt, gọi mở mắt, mở miệng theo y lệnh, tự thở, 
tần số thở ≥ 12 lần/phút, Sp02 > 95%, EtC02 ≤ 45 
mmHg. Sau khi rút MNTQ, BN được chuyển ra 
phòng  hồi  tỉnh.  Tại  phòng  hồi  tỉnh  BN  được 
theo dõi và đánh giá mức  độ hồi  tỉnh cho  đến 
khi  xuất  viện.  Ghi  nhận  các  tai  biến  và  biến 
chứng xảy ra trong và sau mổ. Các số liệu được 
xử lý bằng phần mềm SPSS 13.0. Mô tả các biến 
số định  tính bằng  tỷ  lệ phần  trăm,  các biến  số 
liên tục bằng số trung bình ± độ lệch chuẩn.  
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 8/2012, 
tại khoa PT‐ GMHS bệnh viện Đại Học Y Dược 
thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã tiến hành 
gây mê  tĩnh mạch  với propofol  bằng  kỹ  thuật 
kiểm soát nồng độ đích (TCI) cho 65 bệnh nhân 
tuổi từ 21 đến 70, ASA I, II, chủ yếu là tán sỏi nội 
soi. Kết quả thu được như sau: 
 Bảng 1: Dịch tễ học và các dữ liệu lâm sàng: 
Tổng số BN 65 
Nam/nữ 36/29 
Tuổi TB (năm) 45,46±13,13(21-70) 
Cân nặng TB (kg) 58,46±9,8 (44-75) 
ASA (I/II) 14/51 
Mallampaty (I/II/III/IV) 23/40/1/1 
Loại phẫu thuật Tán sỏi NS: 61(93,8%) 
Cắt bướu BQ: 3 (4,6%) 
 Chụp thận 
ngược dòng: 
 1 (1,5%) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa  91
Tổng liều thuốc Propofol (mg): 511,83±214,57 
(206-1444) 
 Fentanyl (mcg) 201,92±53,27 
(100-350) 
Bảng 2: Nồng độ đích tại não(Ce‐mcg/ml) qua các 
thời điểm: 
Thời điểm Thấp nhất cao nhất Trung bình
Mất tri giác 
(LOC) 
0,6 2 1,3 ± 0,31
Lúc đặt MNTQ 2,6 4 3,64 ± 0,35
Trong can 
thiệp 
3 5 3,87 ± 0,37
Cuối can thiệp 2 4 3,62 ± 0,47
Khi hồi tỉnh 
(ROC) 
0,4 2,6 1,18 ± 0,31
Bảng 3: Nồng độ đích lúc mất tri giác và hồi tỉnh 
theo nhóm tuổi: 
Thời điểm Nhóm tuổi p
 ≤ 40 41-59 ≥ 60 
Mất tri giác 1,4 ± 0,37 1,33 ± 0,29 1,20 ± 0,23 0,209
Khi hồi tỉnh 1,25 ± 0,34 1,18 ± 0,3 1,02 ± 0,21 0,125
Bảng 4: Nồng độ đích lúc mất tri giác và hồi tỉnh 
theo giới: 
Thời điểm 
Giới 
p 
Nam Nữ Tổng 
Mất tri giác 1,34 ± 0,29 1,21 ± 0,29 1,33 ± 0,31 0,004
Khi hồi tỉnh 1,23 ± 0,28 1,11 ± 0,33 1,18 ± 0,31 0,101
Bảng 5: Các ghi nhận về thời gian: 
Thời gian Nhanh 
nhất 
Lâu nhất Trung bình
Thời gian mất tri giác 
(giây) 
34 78 46,02 
Thời gian KM+đặt 
MTQ (phút) 
4,0 8,0* 4,86 ± 0,83
Thời gian gây mê 
(phút) 
19 105 41,18 ± 
17,33 
Thời gian can thiệp 
(phút) 
5 90 26,43 ± 
17,09 
Thời gian HT (phút) 7 35 13,95 ± 5,20
Thời gian nằm PHT 
(phút) 
15 60 38,74 ± 
11,44 
* Những BN phải đặt đến lần thứ 2, 3. 
Biểu đồ 1: Mạch, huyết áp tâm thu (HATT), huyết 
áp tâm trương (HATTr) tại các thời điểm: 
To: mất TG; T1,2: trước và sau đặt MTQ; T3,4: 
trước và sau rạch da; T5: trong can thiệp; T6: cuối 
can thiệp; T7: HT; T8,9: trước và sau rút MTQ 
 Bảng 6: Tụt HA và sử dụng ephedrine; mạch chậm 
và sử dụng atropine:  
 Số ca Tỷ lệ % 
Tụt HA 29 44,6 
Sử dụng ephedrine 5 7,7 
Mạch chậm 11 16,9 
Sử dụng atropine 11 16,9 
Bảng 7: Điểm an thần OAA/S khi về phòng hồi tỉnh: 
OAA/S Số ca Tỷ lệ %
3
4 
5 
7 
25 
33 
10,8
38,5 
50,7 
Tổng 65 100
Bảng 8: Các biến chứng khác ở HP: 
Biến chứng Tần số Tỷ lệ %
Tụt SpO2 < 95% 0 0
Thở chậm<10 hoặc thở 
nhanh >25 
0 0
Chóng mặt 1 1,5
Mất định hướng 0 0
Nôn ói 1 1,5
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 92
BÀN LUẬN 
Sự thay đổi nồng độ đích của Propofol qua 
các giai đoạn phẫu thuật 
Theo Paul F. White(8, PTTN nên giới hạn ở 
các  loại PT ngắn với  thời gian mổ  <  90 phút. 
Ngày nay, với sự phát  triển mạnh mẽ của các 
kỹ  thuật GM và PT mới,  ít xâm  lấn,  thời gian 
không hẳn còn là yếu tố giới hạn cho PT trong 
ngày. Tuy nhiên, do có mối liên quan giữa thời 
gian GM – PT và thời gian hồi tỉnh sau PT, các 
PT kéo dài hơn nên thực hiện sớm trong ngày. 
Các PT kéo dài có thể gây mất nhiều máu, dự 
kiến phải truyền máu thì không nên thực hiện 
PT ngoại trú. Wong và cs(9) đã báo cáo 324 TH 
PTTN có  thời gian mổ  thay đổi  từ 15 đến 165 
phút  đạt  kết  quả  tốt,  không  gây  biến  chứng 
đáng kể nào. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
thời  gian  can  thiệp  thủ  thuật  trung  bình  là 
26,43 ± 17,09 (5 – 90) phút, nằm trong giới hạn 
an toàn của nhiều tác giả. 
Propofol là một trong các loại thuốc mê tĩnh 
mạch thích hợp để đặt MNTQ do khả năng làm 
dãn  cơ hàm  và ức  chế  các  phản  xạ vùng  hầu 
họng.  Do  đó có thể đặt  MNTQ  với  propofol 
mà không cần sử dụng thuốc dãn cơ. Hơn nữa, 
do đặc điểm có thời gian khởi phát nhanh,  thời 
gian tác dụng ngắn, thức  tỉnh sớm và  tỷ lệ nôn 
và buồn nôn sau mổ thấp, nên thích hợp cho các 
loại  PTTN.  Kết  hợp  với  tiền  mê  midazolam 
và fentanyl giúp  cho việc khởi mê êm dịu hơn 
và giảm bớt nồng độ Propofol. Tuy nhiên,  theo 
các tài liệu y văn khi khởi mê bằng Propofol cần 
lưu ý giảm  liều  theo  tuổi  của BN.  Servin khảo 
sát  trên 562 BN  từ 18 – 85  tuổi nhận  thấy nồng 
độ đích khởi mê giảm theo tuổi, phân loại ASA, 
khi  có tiền  mê và kết  hợp  nhóm  morphine 
trước đó(7).  
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  nồng  độ 
mất  tri  giác  trung  bình  là  1,3  ±  0,31 mcg/ml. 
Nồng độ mất  tri giác  ở những bệnh nhân  ≥ 60 
tuổi  thấp hơn so với BN  trẻ nhưng không có ý 
nghĩa  thống  kê  (p=0,209‐bảng  3).  Ngược  lại, 
nồng  độ mất  tri giác  ở  các bệnh nhân nữ  thấp 
hơn có ý nghĩa so với BN nam (p=0,004‐bảng 4). 
Kết  quả  này  tương  tự  với  các  nghiên  cứu  của 
Châu Thị Mỹ An(1): 1,3±0,4 mcg/ml, nhưng thấp 
hơn  so  với  Nguyễn  Quốc  Khánh(5):  1,7±0,3 
mcg/ml và Hiroko Iwakiri MD(3): 2,0±0,9 mcg/ml. 
Nồng độ đích lúc đặt MNTQ trung bình của 
chúng  tôi  là  3,64±0,35 mcg/ml,  cao  hơn  so  với 
nghiên  cứu  của  Phạm Văn Hùng  và  cộng  sự: 
2,4±0,6 mcg/ml. Tuy nhiên chúng  tôi dùng  liều 
fentanyl  thấp  hơn,  chỉ  1,5‐2  mcg/kg  so  với  4 
mcg/kg(7). 
Chúng  tôi  duy  trì  nồng  độ đích  trong  can 
thiệp  trung bình  là  3,96±0,27  (3‐5 mcg/ml). Kết 
quả này cao hơn so với nghiên cứu của Gustavo 
Lugo‐Goytia(2):  3,5‐4,0  mcg/ml  cho  các  PTNS 
bụng. Sự khác biệt này được giải thích do chúng 
tôi không dùng dãn cơ trong khởi mê cũng như 
trong toàn cuộc mổ. 
Vì đa số các can thiệp trong nghiên cứu của 
chúng tôi là tán sỏi nội soi (bảng 1), không có thì 
rạch da  thực  sự nên  chúng  tôi không  cần  tăng 
nồng độ đích vào thời điểm này. Tuy nhiên, để 
tránh các phản xạ có  thể xảy  ra, chúng  tôi đều 
cho  thêm  50 mcg  fentanyl  trước  khi  các  phẫu 
thuật viên tiến hành thủ thuật. 
Trong tán sỏi nội soi, nhất là tán sỏi nội soi 
niệu quản đoạn lưng, bệnh nhân cần được ngủ 
đủ  sâu  để phẫu  thuật viên dễ dàng  thao  tác. 
Trong  tán sỏi nội soi cũng hầu như không có 
khái  niệm  cuối  cuộc mổ. Nhiều  khi  cuộc mổ 
kết  thúc  rất  nhanh  khi  nồng  độ  đích  đang  ở 
giới hạn cao. Trong nghiên cứu của chúng  tôi 
lại không dùng dãn cơ, nên để an toàn, chúng 
tôi  luôn duy  trì nồng  độ này  trong  suốt  cuộc 
mổ. Với  nồng  độ  đích  này  bệnh  nhân  hoàn 
toàn  nằm  yên,  đủ  dãn  cơ,  số  lần  điều  chỉnh 
máy TCI  rất  ít, chỉ 1‐1,5  lần/cuộc mổ. Qua đó 
thể hiện  tính ưu việt của hệ  thống TCI là duy 
trì độ mê ổn định, sự hài lòng của phẫu thuật 
viên  (theo  thang  VAS  tính  ngược)  đạt 
9,83±0,52, điểm PRST trong mổ luôn ≤1. Chúng 
tôi cũng không ghi nhận trường hợp nào bệnh 
nhân nhớ trong mổ. Nồng độ đích lúc hồi tỉnh 
trung bình  trong nghiên  cứu này  là  1,18±0,31 
(0,4‐2,6)  mcg/ml,  thấp  hơn  nồng  độ  mất  tri 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa  93
giác. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu 
của Gustavo Lugo – Goytia: 1,32±0,45 mcg/ml; 
Phạm Văn Hùng: 1,2±0,7mcg/ml; Châu Thị Mỹ 
An:  1,2±0,3,  thấp  hơn  kết  quả  của  Nguyễn 
Quốc  Khánh:  1,7±0,3  mcg/ml  và  Hiroko 
Iwakiri MD:  1,8±0,7mcg/ml.  Sự  khác  biệt  này 
có thể lý giải do các cách tiến hành khác nhau, 
thuốc phối hợp và tiêu chuẩn chọn bệnh cùng 
với  bệnh  lý  phẫu  thuật  khác  nhau.  Và  cuối 
cùng là sự đáp ứng khác nhau giữa các cá thể 
và dân  tộc  trên  thế  giới. Từ  nồng  độ mất  tri 
giác chúng  ta có  thể ước  lượng nồng  độ  thức 
tỉnh của bệnh nhân nhằm tránh tình trạng ngủ 
không  đủ hay  sự  nhớ  lại  trong mổ(6). Hiroko 
Iwakiri MD  thấy  rằng  sự  chênh  lệch về nồng 
độ giữa mất  tri giác và hồi  tỉnh  trên một BN 
chỉ vào khoảng 0,17±0,32 mcg/ml với nồng độ 
hồi  tỉnh  thấp  hơn.  Kết  quả  của  chúng  tôi  là 
0,2±0,2 mcg/ml, cũng tương tự với nghiên cứu 
trên.  
Chúng tôi cũng ghi nhận đôi khi có sự khác 
biệt: nồng  độ  thức  tỉnh  thậm chí bằng hay cao 
hơn nồng  độ mất  tri giác. Có  lẽ do  có  sự phối 
hợp với các thuốc an thần và morphinique trước 
khởi mê. Với  tiền mê midazolam  và  fentanyl, 
thời  gian  mất  tri  giác  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi là 46,02 ± 7,71 giây, ngắn hơn nhiều so 
với Phạm Văn Hùng  (72,8 ± 33,4) và Châu Thị 
Mỹ  An  (75,5  ±  47,5).  Sự  khác  biệt  này  là  do 
chúng tôi chọn kiểu khởi mê nhanh với nồng độ 
đích huyết  tương cài đặt ban đầu  là 6 mcg/ml. 
Cơ sở chọn kiểu khởi mê nhanh của chúng tôi là 
bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
tương  đối  khỏe mạnh,  là  đối  tượng  của  phẫu 
thuật trong ngày.  
Thời gian từ khi khởi mê đến khi đặt MNTQ 
thành  công  trung  bình  là  4,96±0,83  phút  (4‐8 
phút). Tỉ  lệ đặt MNTQ  thành công ngay  từ  lần 
đầu  đạt  60/65  ca  (92,3%). Có  3  ca phải  đặt hai 
lần, 2 ca phải đặt ba lần, nhưng bệnh nhân vẫn 
hoàn toàn nằm yên, không có ca nào kích thích. 
Đó là ưu điểm tuyệt đối của hệ thống TCI trong 
các  trường  hợp  đặt  nội  khí  quản  hay mặt  nạ 
thanh quản khó, do máy vẫn tiếp tục duy trì một 
nồng  độ  thuốc mê  ổn  định. Có  3  trường  hợp 
(4,6%)  bệnh nhân  co  tay  bên  có  đường  truyền 
tĩnh mạch  khi  khởi mê  do  tác  dụng  đau  nơi 
chích của propofol.  
Thời gian gây mê  trung bình  trong nghiên 
cứu của chúng tôi là 41.18 ± 17,33 (19‐105 phút), 
thời gian hồi tỉnh trung bình là 13,95 ± 5,20 (7‐ 35 
phút),  phù  hợp  với  kết  quả  của  nhiều  tác  giả 
trong và ngoài nước. Thời gian máy dự báo hồi 
tỉnh  thường dài hơn  thời gian hồi  tỉnh  thực  tế 
vài phút (18,38 ± 5,66 so với 13,95 ± 5,209), phù 
hợp với các nghiên cứu  trước đây về khả năng 
dự đoán của máy TCI. Tại PHT, 33 BN  (50,7%) 
đạt  điểm OAA/S=5; 25 BN  (38,5%)  đạt  điểm 4, 
chỉ có 7 BN (10,8%) có điểm 3 (Bảng 7). Như vậy, 
hơn một nửa BN có thể đến thẳng PHP, không 
phải qua PHT. Một lần nữa tính ưu việt của gây 
mê TM Propofol có TCI được khẳng định. 
Sự  thay  đổi  huyết  động  và  hô  hấp  trong 
quá trình GMTMKSNĐĐ 
Chúng tôi ghi nhận 29/65 bệnh nhân (44,6% ‐ 
Biểu đồ 1, bảng 6) có tụt huyết áp > 20% so với 
HA nền trước khi khởi mê. Tuy nhiên, huyết áp 
chỉ  tụt  thoáng qua, sau đó nhanh chóng  trở về 
bình thường sau khi giảm nồng độ propofol và 
cho dịch chảy nhanh. Chỉ có 5 bệnh nhân (7,7%) 
thực sự cần đến ephedrine để nâng huyết áp với 
liều  2‐3 mg.  Tỉ  lệ  tụt  huyết  áp  của  chúng  tôi 
tương đối cao, có lẽ do chúng tôi dẫn mê nhanh 
với nồng độ huyết  tương  (Cp) cài đặt ban đầu 
bằng  6  mcg/ml.  Chúng  tôi  không  ghi  nhận 
trường hợp nào có tụt huyết áp ở giữa hay cuối 
cuộc mổ.  
Mạch chậm: có 11 bệnh nhân (16,9%) phải sử 
dụng  atropine  trong  và  sau  khởi  mê.  Liều 
atropine thay đổi từ 0,5 đến 2 mg. Khác với tác 
dụng  tụt  huyết  áp,  chúng  tôi  thấy  có  4  bệnh 
nhân có mạch chậm ở giai đoạn giữa cuộc mổ. 
Tụt  huyết  áp,  mạch  chậm,  đau  nơi  chích  là 
những  tác dụng phụ  của propofol  thường gặp 
nhất(4). Trong quá trình mổ thông khí luôn được 
đảm bảo,  SpO2  luôn  đạt  97‐100%, EtCO2  trong 
khoảng 28‐ 43 mmHg. Không có trường hợp nào 
bị tụt SpO2 dưới 96 %, phải hỗ trợ hô hấp xảy ra 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 94
ở  phòng  hồi  tỉnh. Khi  rút MNTQ  các BN  đều 
nằm yên, không gồng giẫy, một số khó chịu do 
đặt MNTQ như trầy sước niêm mạc, rướn máu 
đều  không  đáng  kể. Các  phiền  nạn  khác  như 
chóng mặt, nôn ói(Bảng 8) chỉ thoáng qua và 
xử trí đơn giản.  
KẾT LUẬN 
Gây mê tĩnh mạch propofol kiểm soát nồng 
độ đích với thông khí MNTQ thì an toàn, dễ sử 
dụng, kiểm soát độ mê nhanh chóng và ổn định, 
đủ  mềm  cơ,  ít  tác  dụng  không  mong  muốn, 
thích hợp với các can thiệp ngoại khoa tiết niệu 
về trong ngày. 
Lời cám ơn Xin chân thành cám ơn TS.BS Phan Tôn Ngọc Vũ 
và các đồng nghiệp tại khoa Phẫu thuật và Gây mê hồi sức; các 
phẫu thuật viên khoa Ngoại niệu BV ĐHYD TP. HCM đã giúp 
đỡ tôi hoàn thành nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Châu Thị Mỹ An, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Văn Chừng 
(2011). “Gây mê tĩnh mạch toàn diện bằng propofol kiểm soát 
nồng độ đích trong phẫu thuật bụng”. Y học thành phố Hồ Chí 
Minh, tập 15(3), tr. 179‐184. 
2. Gustavo LG, et al (2005). “Total  intravenous anesthesia with 
propofol  and  fentanyl:  acomparision  of  target  controlled 
versus manual controlled  infusion system”. Rev Mex Anesth, 
28(1), pp.98‐99. 
3. Iwakiri  H, Nishihara  N, Nagata  O, Matsukawa  T, Ozaki 
M, Sessler DI  (2005). “Individual effect site concentrations of 
propofol  are  silimar  at  loss  of  consciousness  and  at 
awakening”. Anesth Analg, 100:107‐10A 
4. Mc. Leskey CH, et al  (1993). “Adverse events  in multicenter 
phase  IV  study of propofol: Evaluation by anesthesiologists 
and postanesthesia care unit nurses”. Anesth Analog, 77:S3‐S9 
5. Nguyễn Quốc Khánh  (2008). “Bước đầu so sánh gây  tê  tĩnh 
mạch hoàn toàn bằng propofol có hay không kiểm soát nồng 
độ đích”. Đại hội Gây mê hồi sức Việt Nam, Daklak, tr. 208‐221. 
6. Nguyễn Thị Quý  (2012). “Gây mê  tĩnh mạch với kiểm  soát 
nồng độ đích”. Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 16(2), tr. 15‐
26.  
7. Phạm Văn Hùng, Nguyễn Anh  Tuấn,  Phan  Tôn Ngọc Vũ 
(2012). “Đanh giá hiệu quả và an  toàn của sử dụng mặt nạ 
thanh quản proseal với gây mê tĩnh mạch KSNĐĐ propofol 
cho phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm ngực nội soi”. Y 
học thành phố Hồ Chí Minh, tập 16(2), tr. 84‐89. 
8. Sevin F, at al  (1999). “TCI  in children and elderly patients”. 
Acta anesthesiol Belg, 50: 183‐186.  
9. White  PF  (2005).  “Ambulatory  Anesthesia  Advances  into 
New Millennium”. Anesth Analg 90; pp 1234 – 1235. 
10. Wong  J, Tong D, De  Silva Y, Abrishami A, Chung  F  (2009). 
Development  of  the  Functional  Recovery  Index  for 
Ambulatory Surgery and Anesthesia. Anesthesioloy 110; pp 
596 – 602. 
Ngày nhận bài báo:       01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   29/11/2013 
Ngày bài báo được đăng :     05/01/2014