Lê Thị Lựu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 83 - 89 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83  
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG 
VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT TẠI KHOA 
TRUYỀN NHIỄM - BỆNH VIỆN ĐA KHOA TW THÁI NGUYÊN 2009- 2010 
Lê Thị Lựu* và cộng sự 
Bộ môn Truyền nhiễm - Trường ĐH Y Dược - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Bằng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 106 bệnh nhân sốt xuất huyết điều trị tại khoa 
Truyền nhiễm- BVĐKTƯTN năm 2009- 2010 nhằm nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng và kết quả điều trị , chúng tôi thu được kết quả sau: 
- Lâm sàng: sốt xuất huyết độ II gặp 85,8%; độ III gặp 9 ca chiếm 8,5%; Sốt cao trên 39oC chiếm 
93,4%, thường sốt từ 5- 6 ngày với tỉ lệ 71,7%; Xuất huyết gặp ở các hình thái: dưới da (94,33%), 
niêm mạc (38,5%), nôi tạng (5,65%). Xuất huyết xảy ra ở ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 của bệnh 
(83,85%); Các triệu chứng đau đầu, đau cơ khớp, da và niêm mạc xung huyết ở bệnh nhân sốt xuất 
huyết chiếm tỉ lệ cao từ 97,2 đến 100%; Gan to chiếm tỉ lệ 36,8%; nôn gặp 39,6%. 
- Cận lâm sàng: Bạch cầu giảm dưới 4000/mm3 chiếm 74,5%; Hematocrit tăng ≥ 48% chiếm tỉ lệ 
34,9%; Hct tăng < 48% gặp 60,35% ; Tiểu cầu giảm 50.000- < 100.000/mm3 chiếm 69,75%; giảm 
< 50.000/mm
3
 là 27,4%; Men gan tăng(SGOT và SGPT) chiếm 40,6%; Prothrombin giảm < 80% 
chiếm 32,1%; trong đó giảm < 60% chiếm 5,3%. 
- Kết quả điều trị: 100% khỏi ra viện; Ngày điều trị trung bình: 7,05 ± 0,6 ngày. 
Từ khóa: Virus Dengue, sốt, xuất huyết, lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị. 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Sốt xuất huyết (SXH) là một bệnh truyền nhiễm 
cấp tính do virus Dengue gây nên. Bệnh lây truyền 
từ người sang người chủ yếu do muỗi Aedes 
aegypti. Bệnh lây lan nhanh, có thể gây dịch lớn 
và tử vong nếu không được chẩn đoán sớm và điều 
trị đúng [2,4,]. 
Bệnh sốt xuất huyết lưu hành ở vùng nhiệt đới và 
cận nhiệt đới. Ở châu Á, bệnh lưu hành ở hầu hết 
các quốc gia, bệnh gặp ở cả vùng thành thị, nông 
thôn, tuy nhiên tập trung cao ở các khu vực có mật 
độ dân cư đông, tình trạng đô thị hóa cao. Theo 
ước tính của WHO, hàng năm có khoảng 50 đến 
100 triệu người nhiễm virus Dengue, trong đó có 
hơn 500.000 người phải nhập viện. Ở các quốc gia 
thuộc khu vực Đông Nam Á, sốt xuất huyết 
Dengue là một trong 10 nguyên nhân gây tử vong 
hàng đầu ở trẻ em từ 1 đến 14 tuổi, vì vậy sốt xuất 
huyết Dengue vẫn còn là một vấn đề quan trọng 
xếp hàng ưu tiên trong công tác phòng chữa bệnh 
ở khu vực Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương 
[11]. 
Việt Nam được coi là vùng dịch lưu hành địa 
phương, chủ yếu ở các tỉnh miền Nam và Nam 
Trung Bộ. Thống kê của Bộ Y tế Việt Nam năm 
2009 cho thấy, hiện nay sốt xuất huyết Dengue 
đứng thứ 7 trong số 10 nguyên nhân nhập viện 
hàng đầu [2]. 
* Tel: 0975.818.099; Email: 
[email protected] 
Tại Thái Nguyên, theo thông tin của TTYTDP 
Thái Nguyên những năm gần đây, chưa phát hiện 
ổ dịch SXH nào tại địa bàn. Tuy nhiên, năm 2009 
số lượng bệnh nhân sốt xuất huyết điều trị tại 
khoa Truyền nhiễm tăng lên một cách đáng kể so 
với những năm trước đây, với những diễn biến 
lâm sàng đa dạng. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề 
tài: “Nghiên cứu một số đặc lâm sàng, cận lâm 
sàng và kết quả điều trị bệnh nhân sốt xuất 
huyết tại khoa Truyền nhiễm Bệnh viện đa 
khoa TƯ Thái Nguyên 2009- 2010” nhằm mục 
tiêu: 
1. Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng ở bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue tại khoa 
Truyền nhiễm- Bệnh viện Đa khoa Trung ương 
Thái Nguyên. 
2. Nhận xét kết quả điều trị bệnh nhân sốt xuất 
huyết Dengue tại khoa Truyền nhiễm- Bệnh viện 
Đa khoa TW Thái Nguyên. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm các bệnh nhân được chẩn đoán là sốt xuất 
huyết Dengue điều trị tại khoa truyền nhiễm bệnh 
viện ĐKTƯ Thái Nguyên. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: Dựa theo tiêu chuẩn 
chẩn đoán SXHD của Bộ Y tế năm 2009 [2]: 
Lâm sàng: Sốt cao đột ngột, liên tục từ 2- 7 ngày; 
xuất huyết với nhiều hình thái: dấu hiệu dây thắt 
Lê Thị Lựu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 83 - 89 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84  
dương tính, xuất huyết dưới da, xuất huyết ở niêm 
mạc, xuất huyết ở nội tạng; gan to; sốc hoặc không. 
Cận lâm sàng: Hct thêm ít nhất 20% so với giá trị 
bình thường, số lượng tiểu cầu giảm ≤ 100.000 
/mm
3
. 
Bệnh nhân được chẩn đoán là SXHD khi có ít nhất 
2 tiêu chuẩn lâm sàng và 1 tiêu chuẩn cận lâm sàng. 
Phân độ lâm sàng: Độ I: sốt đột ngột kéo dài từ 2 – 
7 ngày, dấu hiệu dây thắt dương tính; Độ II: như độ 
I, kèm theo xuất huyết tự nhiên dưới da và niêm 
mạc; Độ III: có dấu hiệu suy tuần hoàn, mạch 
nhanh nhỏ, huyết áp kẹt hoạc hạ, da lạnh, bứt rứt 
hoặc vật vã li bì. Độ IV: Sốc nặng, mạch nhanh nhỏ 
khó bắt, huyết áp không đo được 
Chẩn đoán xác định SXHD: tìm kháng thể kháng 
virus Dengue lớp IgM. 
Xét nghiệm được làm tại khoa xét nghiệm 
BVĐKTƯ Thái Nguyên, khoa Dịch tễ- Viện VSDT 
Trung ương. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các bệnh nhân sau được loại ra khỏi nghiên cứu: 
bệnh nhân sốt xuất huyết có tiền sử bệnh máu gây 
giảm tiều cầu đã được xác định hoặc các bệnh gây 
xuất huyết khác. 
Thời gian và địa điểm: Từ tháng 09/ 2009- tháng 
10/2010 tại khoa Truyền Nhiễm BVĐKTƯ Thái 
Nguyên. 
Phương Pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang. 
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện, có 
chủ đích. 
Chỉ tiêu nghiên cứu 
- Hành chính: tuổi, giới, nơi sống, tiền sử bệnh, cơ 
địa, tiền sử gia đình, thể trạng, số lần mắc bệnh, nơi 
sống trước lúc bị bệnh; thời gian vào viện, ra viện. 
- Lâm sàng: thời gian và mức độ sốt (nhẹ: <38oC; 
vừa: 38- 39oC), đau đầu, đau cơ khớp, 
nôn, tiêu chảy, đau bụng, gan to, hạch to, phát ban, 
thời gian xuất huyết, hình thái xuất huyết, sốc và 
phân độ lâm sàng. 
- Cận lâm sàng; HC, BC, TC, Hct, SGOT, SGPT, 
PT, Fib, APTT. 
- Tổng số ngày điều trị; Kết quả: khỏi (hết triệu 
chứng lâm sàng và xét nghiệm trở về bình thường); 
không đỡ (chuyển tuyến trên); tử vong. 
Kỹ thuật thu thập số liệu: các thông tin được ghi 
vào phiếu điều tra bệnh nhân (hỏi, khám lâm sàng, 
tham khảo bệnh án). 
Xử lý số liệu: xử lý số liệu bằng phần mềm Epi 
DATA, STATA 
Kết quả nghiên cứu 
Một số đặc điểm của các bệnh nhân nghiên cứu 
Trong 106 bệnh nhân nghiên cứu: gặp chủ yếu độ 
tuổi 15- 35 tuổi chiếm 71,7%; tỉ lệ mắc bệnh ở nam 
giới là 57,5%, nữ giới là 42,5%; bệnh nhân bệnh 
SXH sống ở vùng thành thị, thành phố 73,6%. 
Đặc điểm lâm sàng 
Bảng 1. Phân độ sốt xuất huyết 
Mức độ Số lượng Tỉ lệ % 
Độ I 6 5,7 
Độ II 91 85,8 
Độ III 9 8,5 
Độ IV 0 0 
Nhận xét: trong 106 bệnh nhân SXH, chủ yếu bệnh 
nhân là SXH độ II (85,8%), có 9 ca có biểu hiện 
sốc (đô III) chiếm 8,5%. 
Bảng 2. Đặc điểm sốt 
Đặc điểm sốt Số lượng Tỉ lệ 
% 
Tổng 
Mức độ sốt 
Nhẹ 1 0,9 
Vừa 6 5,7 
Cao 99 93,4 
Thời gian sốt 
≤ 2 ngày 0 0 
3- 4 ngày 11 10,3 
5- 6 ngày 76 71,7 
7- 8 ngày 15 14,2 
9- 10 ngày 2 1,9 
> 10 ngày 2 1,9 
Nhận xét: Bệnh nhân SXH thường sốt cao trên 
39
oC gặp 93,4%; sốt thường kéo dài trong 5- 6 ngày 
chiếm 71,7%. 
Bảng 3. Thời gian xảy ra xuất huyết 
 Dưới da Niêm mạc Nội tạng 
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 
Ngày thứ 1 0 0 0 0 0 0 
Ngày thứ 2- 3 5 3,73 0 0 0 0 
Ngày thứ 4- 5 42 39,60 19 17,90 2 1,90 
Ngày thứ 6- 7 47 44,35 20 18,70 3 2,80 
Ngày thứ 8- 9 6 5,70 2 1,90 1 0,95 
Lê Thị Lựu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 83 - 89 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85  
≥ ngày thứ 10 1 0,95 0 0 0 0 
Tổng 100 94,33 41 38,50 6 5,65 
Nhận xét: trong 106 ca bệnh đều có biểu hiện xuất huyết, vị trí xuất huyết gặp ở dưới da, niêm 
mạc và cả xuất huyết nội tạng; thời gian xuất huyết thường xảy ra từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 
của bệnh; có 1 trường hợp có biểu hiện xuất huyết muộn ở ngày thứ 11 của bệnh. 
Bảng 4. Biểu hiện xuất huyết theo mức độ SXH 
Vị trí XH 
SXH độ II SXH độ III 
p 
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 
XH dưới da 91 100,0 9 100,0 
XH niêm mạc 34 37,4 9 100,0 < 0,001 
XH nội tạng 1 1,1 5 55,6 
 91 100,0 9 100,0 
Nhận xét: Tỉ lệ xuất huyết niêm mạc và nội tạng ở nhóm SXH độ II thấp hơn so với nhóm SXH 
độ III (p, 0,001). 
Bảng 5. Các triệu chứng lâm sàng khác 
Các triệu chứng Số lượng Tỉ lệ % 
Đau đầu 100 100,0 
Đau cơ khớp 103 97,2 
Đau họng 34 32,1 
Hạch to 7 6,6 
Da và niêm mạc xung huyết 100 100,0 
Phát ban 19 17,9 
Đau bụng 13 12,3 
Nôn 42 39,6 
Tiêu chảy 16 15,1 
Gan to 39 36,8 
Nhận xét: các triệu chứng đau đầu, đau cơ khớp, da và niêm mạc xung huyết ở bệnh nhân SXH 
chiếm tỉ lệ cao từ 97,2 đến 100%; gan to chiếm tỉ lệ 36,8%; nôn gặp 39,6%. 
Biến đổi cận lâm sàng 
Bảng 6. Biến đổi công thức máu 
Công thức máu Số lượng Tỉ lệ % 
Bạch Cầu 
Giảm < 4000/mm3 79 74,5 
BT 4000- 9000/mm3 27 25,5 
Tăng >9000/mm3 0 0 
Hồng cầu 
Giảm 2 1,9 
BT 32 30,2 
Tăng > 5.5 x 1012/ L 72 67,9 
Hematocrit 
Giảm < 38% 2 1,90 
BT 38- 42% 3 2,85 
Tăng > 42 - <48% 64 60,35 
Tăng ≥ 48% 37 34,90 
Tiểu cầu 
100.000 - <150.000/mm3 3 2,85 
50.000 - < 100.000/mm3 74 69,75 
< 50.000/mm3 29 27,4 
Nhận xét: Bạch cầu giảm <4000/mm3 chiếm 74,5%. Số lượng hồng cầu tăng gặp ở 72 bệnh nhân 
chiếm 67,9%; có 2 trường hợp có số lượng hồng cầu giảm chiếm 1,9%. Tỉ lệ bệnh nhân có 
Hematocrit cao ≥ 48% chiếm tỉ lệ 34,9%. Số lượng tiểu cầu giảm ở mức từ 50.000 đến < 
100.000/mm
3
 chiếm tỉ lệ cao nhất là 69,75%; có 29 ca có tiểu cầu giảm < 50.000 chiếm 27,4%. 
Bảng 7. Tổn thương gan 
Lê Thị Lựu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 83 - 89 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86  
Tổn thương gan (SGPT) Số lượng Tỉ lệ % 
Bình thường 63 59,4 
Tăng < 5 lần 27 25,5 
Tăng ≥ 5 lần 16 15,1 
Nhận xét: 43 bệnh nhân có tăng men gan trong đó 16 bệnh nhân có men gan tăng ≥ 5 lần chiếm tỉ 
lệ 15,1%. 
Bảng 8. Rối loạn đông máu 
Rối loạn đông máu Số lượng (n= 57) Tỉ lệ % 
APTT tăng 12 21,0 
PT 
60- <80 % 21 36,8 
< 60 % 3 5,3 
Nhận xét: trong 57 ca được làm xét nghiệm đông máu, có 12 trường hợp APTT kéo dài chiếm 
21%; có 24 ca giảm prothrobin < 80%, trong đó 3 ca giảm <60% chiếm 5,3%. 
Kết quả điều trị 
Bảng 9. Thời gian điều trị 
Thời gian Số lượng Tỉ lệ % 
< 5 ngày 17 16,0 
5- 7 ngày 46 43,4 
8- 10 ngày 20 18,9 
> 10 ngày 23 21,7 
Ngày điều trị trung bình 7,05 ± 0,8 
Nhận xét: Bệnh nhân sốt xuất huyết có thời gian điều trị từ 5- 7 ngày chiếm tỉ lệ cao nhất là 
43,4%; 21,7% bệnh nhân phải điều trị với thời gian trên 10 ngày, thường là những bệnh nhân có 
men gan tăng cao. 
Bảng 10. Kết quả điều trị 
Kết quả Số lượng Tỉ lệ % 
Khỏi, ra viện 106 100,0 
Không đỡ (chuyển tuyến trên) 0 0 
Tử vong 0 0 
Tổng 106 100 
Nhận xét: 100% các bệnh nhân sốt xuất huyết điều trị tại khoa đều ổn định, ra viện khỏi hoàn 
toàn, không có trường hợp nào phải chuyển tuyến hoặc tử vong. 
BÀN LUẬN 
Qua nghiên cứu trên 106 bệnh nhân sốt xuất 
huyết tại khoa Truyền nhiễm- BVĐKTƯ Thái 
Nguyên, từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 10 
năm 2010, chúng tôi thấy rằng: 
Đặc điểm lâm sàng 
Dựa theo tiêu chuẩn của WHO, chúng tôi gặp 
chủ yếu là bệnh nhân sốt xuất huyết độ II 
chiếm 85,8%; độ III gặp 9 ca chiếm 8,5% và 
Lê Thị Lựu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 83 - 89 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87  
không có bệnh nhân nào nặng được xếp vào 
sốt xuất huyết độ IV. 
Sốt là triệu chứng được ghi nhận ở 100% 
bệnh nhân, thường gặp là sốt cao trên 39oC 
chiếm 93,4%, chỉ gặp 1 ca là sốt nhẹ; sốt 
thường kéo dài trong thời gian từ 3- 8 ngày 
(96,2%), trong đó sốt từ 5- 6 ngày chiếm tỉ lệ 
cao nhất là 71,7%; có 2 trường hợp sốt trên 
10 ngày, cùng với sốt kéo dài trên 10 ngày thì 
biểu hiện xuất huyết cũng xuất hiện muộn ở 
ngày thứ 11 của bệnh- đây là 2 ca bệnh không 
điển hình như đã được mô tả trong các y văn. 
Theo tác giả Bùi Đại [5], sốt là triệu chứng 
tiêu biểu nhất ở hầu hết các bệnh nhân, 70- 
90% là sốt trên 39oC, sốt kéo dài trung bình 
4- 7 ngày, có trường hợp tới 15- 19 ngày. 
Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cũng phù hợp với tác giả Bùi Đại và nghiên 
cứu của tác giả Lê Ngọc Phú năm 2009 tại 
Bệnh viện 103, sốt cao ở bệnh nhân sốt xuất 
huyết chiếm 88,7% và sốt kéo dài 3- 8 ngày là 
93,8% [8]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, xuất huyết 
xảy ra ở các hình thái: dưới da, niêm mạc, nôi 
tạng. Trong đó xuất huyết dưới da chiếm tỉ lệ 
cao 94,33%, xuất huyết nội tạng gặp 6 ca 
chiếm tỉ lệ 5,65%, xuất huyết niêm mạc gặp 
41 ca chiếm 38,5%. Xuất huyết xảy ra từ 
ngày thứ 2, 3 của bệnh, tuy nhiên xuất huyết 
chủ yếu ở ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 của 
bệnh, chiếm 83,85% /94,33% (với xuất huyết 
dưới da), 36,6% /38,5% (xuất huyết niêm 
mạc), 4,7%/ 5,65% (xuất huyết nội tạng); có 1 
trường hợp có biểu hiện xuất huyết dưới da ở 
ngày thứ 11 của bệnh. Kết quả nghiên cứu ở 
Bệnh viện 103 năm 2009, xuất huyết dưới da 
chiếm 54,7%, xuất huyết niêm mạc 40,7%, 
xuất huyết nội tạng 7,4% [8]. Tỉ lệ bệnh nhân 
có xuất huyết nội tạng ở Bệnh viện 103 cao 
hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có lẽ 
do Bệnh viện 103 là bệnh viện tuyến trên nên 
có nhiều bệnh nhân nặng được chuyển về, các 
trường hợp nhẹ thường có chỉ định điều trị tại 
cơ sở hoặc ngoại trú. Khi phân tích về hình 
thái xuất huyết, chúng tôi thấy trong sốt xuất 
huyết độ III có 5/9 ca (55,6%) có xuất huyết 
nội tạng, trong khi đó sốt xuất huyết độ II chỉ 
gặp 1/91 ca (1,1%). Vì số liệu của chúng tôi 
còn ít nên không so sánh về mối liên quan 
này, nhưng chúng tôi cũng đặt ra câu hỏi phải 
chăng xuất huyết nội tạng là yếu tố tiềm tàng 
gây sốc. Các tác giả Trần Khắc Điền [10] tại 
Viện các bệnh Nhiệt đới và Truyền nhiễm 
Quốc gia, Nguyễn Tường Vân và Nguyễn 
Trọng Lân [9], Lê Ngọc Phú [8] tại Bệnh 
viện 103 đều cho rằng xuất huyết nội tạng ở 
nhóm có sốc cao hơn nhóm không sốc là có 
ý nghĩa thống kê. 
Một số các triệu chứng thường gặp đi kèm 
với sốt đã được xác định đó là đau đầu, đau 
mỏi cơ khớp, xung huyết da và niêm mạc 
chiếm tỉ lệ từ 97,2% đến 100%. Buồn nôn và 
nôn cũng gặp chiếm tỉ lệ 39,6% các trường 
hợp, triệu chứng này thường gặp trên các 
bệnh nhân sốt xuất huyết độ III, các bệnh 
nhân có sốt cao trên 39oC và đau đầu nhiều. 
Gan to là triệu chứng được kể đến trong các y 
văn, cũng là triệu chứng mà Tổ chức Y tế Thế 
giới xếp vào tiêu chuẩn chẩn đoán trên lâm 
sàng. Một số tác giả trong và ngoài nước khi 
nghiên cứu cũng cho kết quả gan to chiếm tỉ 
lệ 40- 60%, trong nghiên cứu này gan to gặp 
ở 36,8%. 
Biến đổi cận lâm sàng 
Khi theo dõi về công thức máu chúng tôi 
thấy rằng: 
Số lượng bạch cầu thường giảm dưới 
4000/mm
3 chiếm 74,5%, thậm chí có trường 
hợp giảm dưới 2000/mm3.Theo WHO [3], 
trong thời kỳ đầu bạch cầu thường giảm, 
sau đó hồi phục ở giai đoạn lui bệnh. Kết 
quả này phù hợp với Lê Ngọc Phú tại Bệnh 
viện 103 năm 2009 là 73,3%, tuy nhiên lại 
cao hơn kết quả của Bạch Quốc Tuyên [1] 
chỉ có 40% và Bùi Đại [5] là 65%, sự khác 
nhau này có lẽ liên quan đến typ Dengue 
gây bệnh trong các vụ dịch. 
Hematocrit tăng ở hầu hết các bệnh nhân, chỉ 
có 2 ca có Hct giảm do có xuất huyết nội 
tạng, 3 ca Hct ở dạng bình thường. Hct tăng ≥ 
48% chiếm tỉ lệ 34,9%, đây là tiêu chuẩn có 
giá trị chẩn đoán cao trên lâm sàng được 
WHO ghi nhận. Trong nghiên cứu này, chúng 
tôi gặp 60,35% ca bệnh có Hct tăng nhưng 
chưa vượt qua ngưỡng 48%, có lẽ do bệnh 
Lê Thị Lựu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 83 - 89 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88  
nhân đi khám bệnh sớm, được bù nước điện 
giải sớm nên tình trạng cô đặc máu đã được 
cải thiện. Kết quả này cũng phù hợp với kết 
quả nghiên cứu của một số tác giả trong và 
ngoài nước [6,7]. 
Giảm số lượng tiểu cầu trong các nhóm 
nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỉ lệ cao 
97,15%, tiểu cầu giảm 50.000- < 
100.000/mm
3
 là 69,75% và giảm < 
50.000/mm
3
 là 27,4%. Đặc biệt có trường hợp 
tiểu cầu giảm còn 15.000/mm3. Các y văn trên 
thế giới đều ghi nhận trong sốt xuất huyết tiểu 
cầu giảm mạnh thường dưới 100.000/mm3. 
Tiểu cầu giảm nặng thường đi kèm với tình 
trạng xuất huyết nặng, tuy nhiên có những ca 
bệnh mặc dù tiểu cầu giảm rất nặng nhưng 
xuất huyết không nhiều. Tiểu cầu thường 
giảm mạnh từ ngày thứ 3,4 của bệnh và hồi 
phục ở ngày thứ 7,8 của bệnh. Chất lượng 
tiểu cầu có bị ảnh hưởng trong sốt xuất huyết 
hay không còn chưa được các tác giả đề cập 
đến, chúng tôi thấy ở một số bệnh nhân tiểu 
cầu giảm ít nhưng xuất huyết nhiều, có lẽ còn 
có yếu tố về thành mạch, rối loạn đông máu 
hay độ tập trung tiểu cầu giảm? 
Tổn thương gan trong sốt xuất huyết được 
chứng minh bằng xét nghiệm có tăng men gan 
(SGOT và SGPT tăng). Kết quả của chúng tôi 
có 43 ca chiếm 40,6% có tăng men gan, 
15,1% có men gan tăng gấp ≥ 5 lần, những 
bệnh nhân xuất huyết nội tạng đều có men 
gan tăng cao. Kết quả này phù hợp với một số 
nghiên cứu trong nước. Các xét nghiệm đông 
máu cũng được kiểm tra trên một số bệnh 
nhân có xuất huyết nhiều (57 ca), một số 
trường hợp nặng có biểu hiện APTT kéo dài 
hơn so với chứng (12/57), đặc biệt có 24/57 
ca có giảm tỉ lệ Prothrombin trong đó giảm 
<60% chiếm 5,3% số ca được làm xét 
nghiệm. Do số bệnh nhân sốc Dengue còn ít 
nên chúng tôi chưa nghiên cứu mối liên quan 
giữa rối loạn đông máu và sốc Dengue. 
Kết quả điều trị 
100% bệnh nhân điều trị tại khoa đều khỏi và 
ra viện, không có ca bệnh nào phải chuyển 
tuyến hoặc tử vong; số ngày điều trị trung 
bình là 7,05 ± 0,6, số bệnh nhân điều trị từ 5- 
7 ngày là 43,4%; một số trường hợp phải điều 
trị trên 10 ngày vì sốt kéo dài hơn, vì tổn 
thương gan đi kèm nên phải điều trị kết hợp 
với bảo vệ tế bào gan. 
KẾT LUẬN 
Đặc điểm lâm sàng 
- Chủ yếu gặp sốt xuất huyết độ II (85,8%); 
độ III gặp 9 ca chiếm 8,5%. 
- Sốt cao trên 39oC chiếm 93,4%, thường sốt 
từ 5- 6 ngày với tỉ lệ 71,7% 
- Xuất huyết gặp ở các hình thái: dưới da 
(94,33%), niêm mạc (38,5%), nôi tạng 
(5,65%). Xuất huyết xảy ra ở ngày thứ 4 đến 
ngày thứ 7 của bệnh (83,85%). 
- Các triệu chứng đau đầu, đau cơ khớp, da 
và niêm mạc xung huyết ở bệnh nhân sốt xuất 
huyết chiếm tỉ lệ cao từ 97,2 đến 100%; 
- Gan to chiếm tỉ lệ 36,8%; nôn gặp 39,6%. 
Biến đổi cận lâm sàng 
Bạch cầu thường giảm dưới 4000/mm3 chiếm 
74,5%, 
Hematocrit tăng ≥ 48% chiếm tỉ lệ 34,9%; 
Hct tăng <48% gặp 60,35% . 
Tiểu cầu giảm 50.000- < 100.000/mm3 chiếm 
69,75%; giảm < 50.000/mm3 là 27,4%. 
Transaminase tăng chiếm 40,6%; 
Prothrombin giảm < 80% chiếm 32,1%; 
trong đó giảm < 60% chiếm 5,3%. 
Kết quả điều trị 
- 100% khỏi ra viện. 
- Ngày điều trị trung bình: 7,05 ± 0,6 ngày. 
KHUYẾN NGHỊ 
Cần tuyên truyền cho cộng đồng cách phòng 
bệnh sốt xuất huyết, các biểu hiện bệnh để 
người bệnh được đến khám và tư vấn điều trị 
sớm, đề phòng sốc xảy ra. 
Tiếp tục tìm hiểu các yếu tố liên quam đến 
sốc để sớm đưa ra biện pháp dự phòng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bạch Quốc Tuyên (1970), Nhận định sơ bộ về 
rối loạn huyết học ở bệnh nhân sốt xuất huyết 
trong vụ dịch 1969 tại Hà Nội, Nxb YHDPTT. 
Lê Thị Lựu và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 83 - 89 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89  
[2]. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị 
sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue. 
[3]. Bộ Y tế (2004), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị 
sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue. 
[4]. Bộ môn Truyền nhiễm, Học viện Quân y, (2008), 
Bệnh học truyền nhiễm và Nhiệt đới, Nhà xuất bản Y 
học, Hà Nội. 
[5]. Bùi Đại (1976), Đặc diểm dịch tễ và lâm sàng sốt 
xuất huyết qua một số vụ dịch ở Việt Nam từ 1960- 
1975, Báo cáo tại Hội nghị NCKH ngành Vệ sinh 
phòng dịch. 
[6]. Hà Văn Phúc (2006), Nghiên cứu một số đặc 
điểm dịch tễ, lâm sàng và yếu tố tiên lượng bệnh 
sốt xuất huyết Dengue ở Huyện Vĩnh Thuận- Kiên 
Giang, Luận văn Bác sĩ CKII, Học Viện Quân Y. 
[7]. Lê Đăng Hà (2003), “Đặc điểm lâm sàng và cận 
lâm sàng sốt xuất huyết Dengue ở người lớn”, Tạp 
chí thông tin Y dược, số 7. 
[8]. Lê Ngọc Phú (2009), Một số đặc điểm dịch tễ, 
lâm sàng, cận lâm sàng và yếu tố tiên lượng ở bệnh 
nhân sốt xuất huyết Dengue tại khoa Truyền nhiễm - 
Bệnh viện 103. 
[9]. Nguyễn Trọng Lân (2006), Kinh nghiệm điều trị 
sốt xuất huyết Dengue tại Bệnh viện Nhi đồng 1, năm 
2001. 
[10]. Trần Khắc Điền (2007), Đặc điểm lâm sàng, xét 
nghiệm, điều trị sốt xuất huyết Dengue tại Viện các 
bệnh Truyền nhiễm và Nhiệt đới Quốc gia, Luận văn 
bác sĩ CKII, Hà Nội. 
[11]. WHO, Dengue haemorrhagic fever: diagnosis, 
treatment and control, Geneva. Năm 2004. 
SUMARY 
STUDY ON SOME CLINICAL AND SUBCLINICAL FEATURES, AND RESULTS OF 
TREATMENT FOR DENGUE FEVER PATIENTS IN INFECTIOUS DEPARTMENT – THAI 
NGUYEN CENTRAL GENERAL HOSPITAL IN 2009- 2010 
Le Thi Luu
*
 and assistants 
College of Medicine and Pharmacy - TNU 
By means of cross-sectional descriptive study on 106 Dengue haemorrhagic fever treated at the Department 
of Infectious of ThaiNguyen Central Genaral Hospital from 2009 to 2010 we obtained the following 
results: 
Clinical: Level II is 85,8%, level III is 8,5%; patient
’
s temperate over 39
o
C is 93,4%, fever during from 5 to 
6 days is 71,7%; Subcutainous heamorrhage is 94,33%, mcosal heamorrhage is 38,5%, organ hemorrhage is 
5,65%, heamorrhage occurred on the 3
nd
 day to 7
th
 day of illness is 83,85%; enlarged lived is 36,8%; 
vomiting is 39,6%. The symptoms of headache, muscle pain, arthritis, skin and mucosal congestion in 
patients with dengue fever higher proportion from 97.2 to 100%; 
Subclinical: White blood cells account for 74.5% fall below 4000/mm3, hemato critincrease ≥ 48% is 
34.9%, hematocrit increased <48% having 60.35%, Platelets down 50,000- <100,000 /mm
3
 accounted for 
69.75%, reduction <50.000/mm
3
 was 27.4%, Transaminase increased accounted for 40.6%; Prothrombin 
decreased <80% accounted for 32.1%, which decreased <60% occupied 5.3%. 
Treatment Results: 100% of patients recover completely; Average days of treatment is 7.05 ± 0.6 
Key words: Virus dengue, fevev, heemouhage, clinical, subclinical, tratment. 
*
 Tel: 0975.818.099; Email: 
[email protected]