Phạm Công Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 119 - 123 
119 
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG 
CỦA BỆNH NHÂN MÀY ĐAY CẤP KHÔNG RÕ CĂN NGUYÊN 
Phạm Công Chính*, Lương Thị Thu 
 Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Bằng phương pháp nghiên cứu mô tả về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên 62 bệnh nhân bị 
bệnh mày đay cấp vô căn, kết quả cho thấy: Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 15 tuổi (30,65%) và trên 
60 tuổi (29,03%); tỷ lệ gặp ở nữ: 64,51%, ở nam: 35,49%. 
Về lâm sàng: 100,00% có ngứa, 98,38% có sẩn phù, 53,22% đau rát, 51,61% phù nề tại chỗ, 
48,39% có dát đỏ rải rác, 40,32% có sốt, 30,63% có khó thở và 25,80% bệnh nhân có các triệu 
chứng khác như đau bụng, đi ngoài phân lỏng... 
Về cận lâm sàng: Tỷ lệ bệnh nhân bất thường về số lượng hồng cầu: 25,81%. Tăng số lượng bạch 
cầu (BC): 77,40%, trong đó tăng BC trung tính: 62,90%, BC ái toan: 64,52%, BC ái kiềm 12,90%, 
BC mono: 11,29%, BC lympho: 48,39%. 
Từ khoá: Bệnh mày đay cấp, lâm sàng và cận lâm sàng 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Mày đay là một bệnh da dị ứng hay gặp nhất 
và rất phổ biến ở các nước có khí hậu nhiệt 
đới, ở nước ta có khoảng 15 - 23% dân số đã 
từng bị mày đay, trong đó mày đay cấp (thời 
gian bị bệnh dưới 6 tuần) chiếm 75%. Ở một 
số quốc gia châu Âu như Anh, Đức tỷ lệ mắc 
bệnh này dao động từ 10 - 15%. Căn nguyên 
của bệnh rất phức tạp, có liên quan tới nhiều 
bệnh và nhiều yếu tố, phần lớn các trường 
hợp là không rõ nguyên nhân [1], [2], [10]. 
Tổn thương cơ bản là các sẩn phù (sẩn mày 
đay) và dát đỏ. Sẩn mày đay có kích thước từ 
vài milimet đến 1- 2 centimet, có khi tạo 
thành mảng sẩn phù hình tròn, hình nhẫn, 
hình bản đồ, hình bầu dục hoặc ngoằn ngoèo, 
không đều, giới hạn rõ, kích thước to nhỏ 
khác nhau, màu đỏ, ở giữa tổn thương màu 
trắng ngà, ấn kính mất màu, nhìn trên bề mặt 
sẩn phù thấy lỗ chân lông giãn rộng. Tổn 
thương có thể lan ra xung quanh dưới dạng 
giả túc (chân giả), số lượng nhiều hay ít tùy 
bệnh nhân. Có một đặc điểm là mỗi khi 
những sẩn phù ăn vào các chỗ da lỏng lẻo như 
mí mắt, âm hộ, bao quy đầu hay các niêm 
mạc thì lan ra nhanh chóng, ngứa và rất nguy 
hiểm [3], [4]. 
* Tel: 0984 671959, Email: 
[email protected] 
Vị trí tổn thương: Có thể gặp ở bất kỳ vị trí 
nào, rải rác toàn thân hoặc khu trú trên cơ thể, 
các thương tổn có thể xuất hiện cả ở niêm 
mạc đường hô hấp gây khó thở hoặc ở niêm 
mạc dạ dày làm bệnh nhân đau bụng từng 
cơn, đi ngoài phân lỏng. Các thương tổn xuất 
hiện ở quanh miệng phải được nhìn nhận như 
là một cấp cứu trong da liễu và phải theo dõi 
các dấu hiệu tắc nghẽn hô hấp ở bệnh nhân 
[8], [9]. Bệnh nhân thấy ngứa, có thể ngứa 
râm ran, dấm dứt như phải bỏng, có khi ngứa 
dữ dội, cảm giác nóng rát; có thể đau khớp, 
đau bụng, buồn nôn, nôn, đi ngoài phân lỏng, 
khó thở, sốt, tụt huyết áp. 
Về cận lâm sàng, một số tác giả đề cập đến sự 
thay đổi tăng số lượng bạch cầu đặc biệt là tế 
bào bạch cầu ái toan trong hầu hết các trường 
hợp [9], [10]. 
Chúng tôi tiến hành đề tài nhằm mục tiêu: Mô 
tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
của bệnh mày đay cấp không rõ căn nguyên. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 62 bệnh nhân bị bệnh mày đay cấp vô 
căn vào điều trị nội trú tại khoa Da liễu - 
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. 
Phạm Công Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 119 - 123 
120 
Tiêu chuẩn lựa chọn 
- Các bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng đặc trưng: 
+ Tổn thương căn bản: Sẩn phù hay mảng sẩn 
phù kèm theo dát đỏ, có vết xước. 
+ Vị trí tổn thương: Có thể gặp ở bất kỳ vị trí 
nào, rải rác hoặc khu trú trên cơ thể. 
+ Cơ năng: Bệnh nhân thường có ngứa, ngứa 
râm ran, càng gãi càng ngứa và tổn thương xuất 
hiện càng nhiều, có thể kèm theo đau bụng, 
buồn nôn, nôn, đi ngoài phân lỏng, khó thở... 
+ Triệu chứng toàn thân: Có thể sốt, tụt 
huyết áp. 
- Thời gian bị bệnh dưới 6 tuần. 
- Chưa dùng thuốc điều trị trước khi vào viện. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu có chủ đích. 
Cỡ mẫu: toàn bộ. 
Chỉ tiêu nghiên cứu 
- Đặc điểm về tuổi, giới. 
- Đặc điểm lâm sàng: Toàn thân, cơ năng và 
thực thể. 
- Công thức máu ngoại vi, một số chỉ số sinh 
hóa máu. 
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Da liễu - BV Đa 
khoa TƯ Thái Nguyên. 
Thời gian nghiên cứu; Từ tháng 09/2012 
đến tháng 05/2013. 
Kỹ thuật thu thập số liệu: Phỏng vấn trực 
tiếp, khám lâm sàng, xét nghiệm. 
Xử lý số liệu: Bằng phương pháp thống kê y 
học trên phần mềm SPSS 16.0 và EPI 6. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1. Tỷ lệ bệnh nhân phân bố theo nhóm tuổi, giới tính 
Giới tính 
Nhóm tuổi 
Nữ Nam Tổng 
SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) 
02 - 15 tuổi 9 14,52 10 16,13 19 30,65 
16 - 30 tuổi 15 24,19 2 3,23 17 27,42 
31 - 45 tuổi 1 1,61 1 1,61 2 3,23 
46 - 60 tuổi 4 6,45 2 3,23 6 9,68 
> 60 tuổi 11 17,74 7 11,29 18 29,03 
Tổng 40 64,52 22 35,48 62 100,00 
35,75 ± 24,41 35,64 ± 31,38 35,71 ± 26,83 
Nhận xét: Bệnh gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi 02 - 15 tuổi với tỷ lệ 30,65%. Tuổi trung bình của 
bệnh nhân là 35,71 ± 26,83, trong đó nữ là 35,75 ± 24,41; nam là 35,64 ± 31,38. Tỷ lệ bệnh 
nhân nữ chiếm 64,52%, nam chiếm 35,48%. 
Bảng 2. Tỷ lệ bệnh nhân phân bố theo biểu hiện lâm sàng 
Giới 
Biểu hiện 
Nữ (n = 40) Nam (n = 22) Tổng 
 Số 
lượng 
Tỷ lệ 
 (%) 
 Số 
lượng 
Tỷ lệ 
(%) 
 Số lượng Tỷ lệ (%) 
Sẩn phù 40 100,00 21 95,45 61 98,38 
Dát đỏ 20 50,00 10 45,45 30 48,39 
Phù nề 23 57,50 9 40,91 32 51,61 
Ngứa 40 100,00 22 100,00 62 100,00 
Đau rát 26 65,00 7 31,82 33 53,22 
Sốt 17 42,50 8 36,36 25 40,32 
Khó thở 15 37,50 4 18,18 19 30,63 
Các triệu chứng khác 11 27,50 5 27,73 16 25,80 
Phạm Công Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 119 - 123 
121 
Nhận xét: Các biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân khi vào viện 100,00% có ngứa, 98,38% có sẩn 
phù, 53,22% đau rát, 51,61% phù nề tại chỗ, 48,39% có dát đỏ rải rác, 40,32% có sốt, 30,63% có 
khó thở và 25,80% bệnh nhân có các triệu chứng khác như đau bụng, đi ngoài phân lỏng... 
Bảng 3. Kết quả xét nghiệm một số chỉ số máu ngoại vi (n = 62) 
Chỉ số 
Bất thường Bình thường 
SL TL (%) SL TL (%) 
Số lượng hồng cầu 16 25,80 46 74,20 
Số lượng bạch cầu (BC) tăng 48 77,40 14 22,60 
 - BC trung tính 39 62,90 23 37,10 
 - BC ái toan 40 64,52 22 35,48 
 - BC ái kiềm 8 12,90 54 87,10 
 - BC mono 7 11,29 55 88,71 
 - BC lympho 30 48,39 32 51,61 
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân bất thường về các chỉ số như sau: hồng cầu: 25,81%, BC trung tính: 
62,90%, BC ái toan: 64,52%, BC ái kiềm 12,90%, BC mono: 11,29%, BC lympho: 48,39%. 
Bảng 4. Kết quả xét nghiệm một số chỉ số sinh hóa máu ngoại vi (n = 62) 
Chỉ số 
Bất thường (tăng) Bình thường 
SL TL (%) SL TL (%) 
Glucose máu 18 29,00 44 71,00 
Ure máu 07 11,30 55 88,70 
Creatinin máu 16 25,80 46 74,20 
Men gan (SGOT, SGPT) 22 35,48 40 64,52 
Nhận xét: Trong số các trường hợp xét nghiệm sinh hóa máu ngoại vi, tỷ lệ bệnh nhân bất 
thường về các chỉ số như sau: tăng glucose máu: chiếm 29,00%, tăng ure máu: 11,30%, tăng 
creatinin máu: 25,80%, tăng men gan (SGOT, SGPT): 35,48%. 
BÀN LUẬN 
Yếu tố nhóm tuổi, giới tính 
Nhóm tuổi 
Trong số 62 bệnh nhân nghiên cứu, phân bố 
theo nhóm tuổi như sau: 2 - 15 tuổi chiếm 
30,65%; 16 - 30 tuổi chiếm 27,42%, 31 - 45 
tuổi chiếm 3,23%; 46 - 60 tuổi chiếm 9,68% 
và trên 60 tuổi chiếm 29,03% (bảng 1). Kết 
quả nghiên cứu cho thấy bệnh mày đay cấp 
tính xảy ra nhiều nhất ở trẻ em. Mặc dù 
nghiên cứu với cỡ mẫu chưa đủ lớn nhưng kết 
quả của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với 
nghiên cứu của Novembre E và CS [8]. 
Chúng tôi cho rằng trẻ em dễ bị các bệnh dị 
ứng do da trẻ mỏng và nhạy cảm, ý thức giữ 
gìn vệ sinh da của các trẻ chưa cao nên dễ 
mắc bệnh mày đay là hoàn toàn phù hợp. Đối 
tượng khác mắc bệnh mày đay cũng chiếm tỷ 
lệ cao trong nghiên cứu của chúng tôi là 
nhóm người cao tuổi. Điều này phù hợp với 
nghiên cứu của một số tác giả là các bệnh 
ngoài da gặp nhiều ở người cao tuổi [7], [9]. 
Giới tính 
Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng bệnh 
nhân mày đay cấp vô căn vào viện chủ yếu 
gặp ở nữ giới (chiếm 64,52%) (bảng 1). Kết 
quả này phải chăng, cơ thể nam giới khỏe 
mạnh hơn nữ giới và chức năng của hệ miễn 
dịch tốt hơn ở nữ nên cơ thể nam giới có sức 
đề kháng và khả năng chống lại các yếu tố dị 
nguyên xâm nhập tốt hơn, đồng thời nữ giới 
cũng dễ bị stress hơn nam giới là yếu tố thúc 
đẩy sự phát triển của các bệnh dị ứng da. Điều 
này cũng giải thích tại sao cần giữ tâm trạng 
thoải mái, an tĩnh và bồi dưỡng nâng cao sức 
khỏe khi bị bệnh mày đay nói chung và các 
bệnh dị ứng da nói riêng. Điều này phù hợp 
với nghiên cứu của Kalogeromitros D và CS 
Phạm Công Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 119 - 123 
122 
về đặc điểm dịch tễ của bệnh nhân mày đay 
nói chung [6], [10 ]. 
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
Đặc điểm lâm sàng 
Các biểu hiện lâm sàng thường gặp khi bệnh 
nhân vào viện như sau: sẩn phù, dát đỏ, phù 
nề, ngứa, đau rát, sốt, khó thở. Các triệu 
chứng khác ít gặp hơn như: đau khớp, rối loạn 
tiêu hóa, tụt huyết áp... Qua theo dõi, chúng 
tôi thấy khi bệnh nhân vào viện có những 
biểu hiện lâm sàng hoàn toàn phù hợp với các 
tài liệu nghiên cứu về bệnh mày đay [1], [3], 
[4]. Tất cả các triệu chứng lâm sàng khi bệnh 
nhân vào viện gặp ở nữ nhiều hơn ở nam: 
100,00% nữ và 95,45% nam có sẩn phù; 
50,00% nữ và 45,45% nam có dát đỏ; 57,50% 
nữ và 40,91% nam bị phù nề; 65,00% nữ và 
31,82% nam thấy đau rát; 42,50% nữ và 
36,36% nam bị sốt; 37,50% nữ và 18,18% 
nam thấy khó thở; các triệu chứng khác cũng 
gặp nhiều ở nữ hơn ở nam (bảng 2). Điều này 
hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của 
Kalogeromitros D và CS [6]. 
Qua 62 bệnh nhân nghiên cứu chúng tôi thấy 
triệu chứng ngứa gặp ở tất cả các bệnh nhân. 
Chúng tôi cho rằng khi người ta thấy ngứa sẽ 
tạo một phản xạ muốn gãi, gãi là một giải 
pháp tình thế làm giảm ngứa nhưng trong đa 
số các trường hợp càng gãi càng ngứa và lại 
phải gãi nhiều hơn tạo một vòng luẩn quẩn 
ngứa - gãi. Chính vì vậy, trong điều trị bệnh 
mày đay cần lưu ý tránh gãi nhiều vì gãi 
không những làm cho ta thấy ngứa nhiều hơn 
mà còn làm tình trạng bệnh nặng hơn, kéo 
theo nhiều thương tổn hơn, làm ảnh hưởng 
đến kết quả điều trị [4] [9]. 
Đặc điểm cận lâm sàng 
- Một số chỉ số máu ngoại vi: Trong số 62 
bệnh nhân được xét nghiệm công thức máu, 
có 25,81% bệnh nhân có bất thường về số 
lượng hồng cầu và có tới 77,40% số bệnh 
nhân có tăng bất thường về số lượng bạch cầu 
(BC), trong đó số lượng BC đa nhân trung 
tính: 62,90%, số lượng BC ái toan 64,52%, số 
lượng BC ái kiềm: 12,90%, số lượng BC 
mono: 11,29%, số lượng BC lympho: 48,39% 
(bảng 3). Như ta đã biết, phản ứng viêm xảy 
ra tại vị trí tổn thương sẽ giải phóng các sản 
phẩm xâm nhập vào máu, theo tuần hoàn đến 
tủy xương kích thích tủy xương tăng giải 
phóng bạch cầu. Mà bệnh mày đay là phản 
ứng của da do viêm [3], nên có sự bất thường 
về số lượng bạch cầu là phù hợp với quy luật 
thay đổi thành phần máu ngoại vi trong 
trường hợp có viêm và phù hợp với nghiên 
cứu trong các tài liệu về bệnh mày đay [4]. 
Về vấn đề thiếu máu, để phát hiện ra những 
rối loạn bất thường trong công thức máu nên 
được nghiên cứu cụ thể trên số lượng bệnh 
nhân lớn hơn. 
- Một số chỉ số sinh hóa máu: Trong số 49 
bệnh nhân được xét nghiệm sinh hóa máu có 
30,61% bệnh nhân có chỉ số glucose máu bất 
thường, 12,24% bệnh nhân có chỉ số ure máu 
bất thường, 26,53% bệnh nhân có chỉ số 
creatinin máu bất thường, 34,69% số bệnh 
nhân có có chỉ số men gan (SGOT, SGPT) 
tăng bất thường (bảng 4). Mặc dù số lượng 
bệnh nhân còn khiêm tốn nhưng với kết quả 
trên chúng tôi cho rằng các rối loạn sinh hóa 
cũng đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh 
học bệnh mày đay. Kết quả này hoàn toàn phù 
hợp với y văn và kết luận của Cohen JB và 
CS là bất kỳ một rối loạn nào về chức năng 
sinh lý đều có ý nghĩa quan trọng trong các 
biểu hiện ngoài da, trong đó có bệnh mày đay 
[5]. Ngoài ra, hiện tượng bất thường SGOT, 
SGPT cũng liên quan đến triệu chứng cơ năng 
của bệnh, chúng tôi cho rằng khi men gan 
tăng cao sẽ làm cho gan không lọc được các 
chất độc, đây có thể là các kháng nguyên nội 
sinh sinh ra bệnh cảnh của bệnh mày đay. 
KẾT LUẬN 
- Bệnh mày đay cấp thường gặp ở trẻ dưới 15 
tuổi (30,65%) và trên 60 tuổi (29,03%). 
- Tỷ lệ bệnh gặp ở nữ giới (64,51%) cao hơn 
nam giới (35,49%). 
- Lâm sàng: 100% bệnh nhân có ngứa, 95,00-
100,00% bệnh nhân có sẩn phù, dát đỏ 
- Rối loạn chỉ số máu ngoại vi thường gặp 
nhất là tăng số lượng bạch cầu (77,40%), 
trong đó chủ yếu là tăng bạch cầu ái toan 
(64,52%). 
Phạm Công Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 119 - 123 
123 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Lan Anh (2012), Bệnh mày đay, Viện Da 
liễu Trung ương, tr. 4 – 22. 
2. Phạm Thị Thu Hà (2011), "Nghiên cứu nguyên 
nhân gây bệnh và hiệu quả điều trị mày đay mạn 
tính bằng phối hợp thuốc kháng histamin H1 + H2" 
Luận văn thạc sĩ, Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội, tr. 43 – 52. 
3. Nguyễn Quý Thái, Phạm Công Chính, Trần 
Văn Tiến (2011), Bệnh da miễn dịch – Dị ứng, 
Nxb Dân trí, Hà Nội, tr. 108 – 111. 
4. Trường Đại học Y Hà Nội (1992), Bệnh Da liễu, 
Bộ môn Da liễu, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 81 85. 
5. Cohen JB, Janniger CK, Piela Z, Szepietowski 
JC, Samady JA, Schwartz RA (1999), 
“Dermatologic correlates of selected metabolic 
events”, J Med, 30(3 - 4), pp. 149 - 156. 
6. Kalogeromitros D, Psaltopoulou T, Makris 
M, Koti I, Chliva C, Stefanadi E et al (2011), “Can 
Internet surveys help us understanding allergic 
disorders? - results from a large survey in 
urticaria in Greece”, J Eur Acad Dermatol 
Venereol, 25(5), pp. 532 – 537. 
7. Naimer SA, Cohen AD, Mumcuoglu KY, 
Vardy DA (2002), “Household papular urticaria”, 
Isr Med Assoc J, 4(11Suppl), pp.911 – 913. 
8. Novembre E, Cianferoni A, Mori F, Barni 
S, Calogero C et al(2008), “Urticaria and 
urticaria related skin condition/ disease in 
children”, Eur Ann Allergy Clin Immunol, 40 (1), 
pp. 5 – 13. 
9. Soria A, Francès C (2013), Urticaria: Diagnosis 
and treatment,. Rev. Med. Interne, Feb, (25)- 
French 
10. Williams JD, Lee AY, Matheson MC, Frowen 
KE, Noonan AM, Nixon RL (2008), 
“Occupational contact urticaria: Australian data”, 
Br J Dermatol, 159(1), pp. 125 – 131. 
SUMMARY 
STUDY ON SOME CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS 
ON PATIENTS WITH ACUTE URTICARIA OF UNKNOWN ETIOLOGY 
Pham Cong Chinh*, Luong Thi Thu 
College of Medicine and Pharmacy - TNU 
To describe some clinical and paraclinical characteristics on 62 patients with acute urticaria of 
unknown etiology.Results: Acute urticaria occurring in common under 15 years old children 
(30.65%) and over over 60 years old (29.03%). The rates of women are 64.51% and men are 
35.49%. 
In term of the clinical features, there are 100.00% of patients with pruritus, 98.38% of patients with 
edema rash, 53.22% of patients with burning pain, 51.61% of patients with local edema, 48.39% of 
patients with scattered erythema, 40.32% of patients with fever, 30.63% of patients with dyspnea and 
25.80% of patients with other symptoms such as abdominal pain, loose stools, etc. 
In term of the sub-clinical features, percentages of patients has abnormal peripheral blood counts 
such as 25.81% of erythrocytes, 77.40% of increase of leukocytes, in which, 62.90%, increase of 
neutrophils, 64.52% of eosinophils, 12.90% of alkaline affinity, 11.29% monocytes and 48.39% 
of lymphocytes. 
Key words: acute urticaria, clinical and sub-clinical 
Ngày nhận bài:14/5/2014; Ngày phản biện:27/5/2014; Ngày duyệt đăng: 20/8/2014 
Phản biện khoa học: PGS.TS. Nguyễn Quý Thái – Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0984 671959, Email: 
[email protected]