Bài viết này trình bày việc hỗ trợ một trường hợp trẻ có khó khăn về học toán
(Dyscalculie), cụ thể là khó khăn về lĩnh hội cơ số 10 và thao tác các phép
tính số học. Đầu tiên, chúng tôi giới thiệu sơ lược một số lý thuyết cơ sở liên
quan đến việc lĩnh hội các phép toán số học cũng như những đặc trưng của
trẻ có khó khăn về tính toán. Tiếp theo, các quá trình quan sát, đánh giá
sàng lọc, lượng giá và xây dựng kế hoạch can thiệp sẽ được mô tả. Sau cùng,
dựa trên những thông tin lượng giá và kế hoạch can thiệp, những hoạt động
được sử dụng và kết quả chính của quá trình can thiệp sẽ được trình bày. Từ
đó cho thấy, việc xây dựng một quy trình đi từ quan sát, lượng giá và lập kế
hoạch can thiệp là điều vô cùng cần thiết và đem lại tính hiệu quả trong hoạt
động hỗ trợ trẻ có khó khăn tính toán. Bên cạnh đó, cách thức hỗ trợ của các
giáo viên ở trường học cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc học của học sinh
có khó khăn học tập nói chung và học sinh khó học toán riêng.
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: Thục Anh | Lượt xem: 823 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Nghiên cứu trường hợp một trẻ học sinh Lớp 2 có khó khăn về tính toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(trộn lẫn chiến lược 1 và 2); 4) Chiến lược bù trừ
	Dụng cụ
– Thẻ bài, lego; Trò chơi bán hàng (tính số hàng được bán, tính số tiền 
mua,); Các phép tính 2-3 chữ số.
	Cách tiến hành
Thực hiện làm quen và dẫn nhập trẻ vào hoạt động chơi, và chơi theo 
các thứ tự theo từng cấp độ từ dễ đến khó: Thực hiện phép tính cộng và trừ 
với các phép tính đúp (2 + 2, 5 + 5,), giao hoán phép cộng, thao tác với 
các công cụ cụ thể (đường số học và khối gỗ); Chiến lược Min trong tính 
cộng (3 + 6 = 7, 8, 9) và đếm trên đối với phép trừ (6 – 3 = 4, 5, 6); Sử dụng 
chiến lược Min trên các phép tính với các số bé tới các số lớn. 
192
Sử dụng các chiến lược theo các bước: 
+ Phân giải số thứ 2 thành hàng chục và đơn vị và cộng/trừ số đó với 
số thứ nhất (ví dụ: Phép cộng: 45 + 14 = 45 + 10 + 4; Phép trừ: 45 – 14 = 
45 – 10 – 4).
+ Xử lý số tách rời các số chục và đơn vị (ví dụ: Phép cộng 45 + 14 = 
(40 + 10) + (5 + 4) = 50 + 9; Phép trừ: 45 – 14 = (40 – 10) + (5 – 4).
+ Chiến lược chuỗi (trộn lẫn chiến lược 1 và 2) (ví dụ: Phép cộng: 45 
+ 14 = (40 + 10 = 50), (50 + 5 = 55), (55 + 4 = 59); Phép trừ: 45 – 14 = (40 
– 10 = 30), (30 + 5 = 35), (35 – 4 = 31).
+ Chiến lược bù trừ (ví dụ: phép cộng: 37 + 19 = (37 + 20) – 1; Phép 
trừ: 37 – 19 = (37 – 20) + 1.
2.2.6. Kết quả can thiệp
Trong thời gian can thiệp 9 tuần, với thời lượng 40 phút/2 buổi/tuần 
can thiệp, Trung Kiên đã đạt được một số kết quả nhất định:
	Kết quả đánh giá tiền can thiệp
Đối với bài tập xác định vị trí hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm. Trẻ 
chưa thể thực hiện, kết quả là 0,0% so với mong đợi của bài tập; Đối với 
bài tập thực hiện các thao tác tính thời gian, kết quả là tỷ lệ các lỗi sai khá 
nhiều, trong đó trẻ gặp khá nhiều lỗi ở phép trừ, đặc biệt là phép trừ thiếu 
dữ kiện, trong đó:
+ Đối với phép tính cộng: 6/9 số câu làm đúng (66,6%); tổng thời gian 
thực hiện 182 giây.
+ Đối với phép tính cộng thiếu dữ kiện: 5/7 câu làm đúng (71,4%); tổng 
thời gian thực hiện 121 giây.
+ Đối với phép tính trừ: 7/9 số câu làm đúng (77,8%); tổng thời gian 
thực hiện 153 giây.
+ Đối với phép tính trừ thiếu dữ kiện: 4/7 câu làm đúng (57,4%); tổng 
thời gian thực hiện 132 giây.
193
	Kết quả đánh giá hậu can thiệp
Sau quá trình can thiệp, kết quả đánh giá bằng đường căn bản đạt 
được của trẻ sau 9 tuần rất tốt. Trong đó:
– Đối với bài tập xác định vị trí hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm: 
Trẻ thực hiện rất tốt, kết quả là 100% so với mong đợi của bài tập.
Đối với bài tập thực hiện các thao tác tính thời gian và chiến lược được 
sử dụng: Trung Kiên đã lĩnh hội cơ bản được các chiến lược trong thực hiện 
phép tính, trong đó đặc biệt là chiến lược min và chiến lược phân giải được 
trẻ sử dụng khá nhiều. Kết quả sau can thiệp trẻ đạt được như sau:
+ Đối với phép tính cộng: 8/9 số câu làm đúng (88,9%); tổng thời gian 
thực hiện 121 giây (nhanh hơn 61 giây so với trước can thiệp).
+ Đối với phép tính cộng thiếu dữ kiện: 7/7 câu làm đúng (100%); tổng 
thời gian thực hiện 98 giây.
+ Đối với phép tính trừ: 9/9 số câu làm đúng (100%); tổng thời gian 
thực hiện 112 giây.
+ Đối với phép tính trừ thiếu dữ kiện: 6/7 câu làm đúng (85,7%); tổng 
thời gian thực hiện 83 giây.
Nhìn chung, qua quá trình can thiệp trẻ đã có nhiều sự tiến triển rõ 
rệt, mặc dù việc hiểu và lĩnh hội các kỹ năng về cơ số 10 và các thao tác tính 
toán của trẻ vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là đối với các phép tính. Việc 
lấy từ trí nhớ dài hạn của trẻ trong việc thực hiện các phép tính vẫn chưa 
được sử dụng một cách rõ rệt, cách thức vận dụng chiến thuật linh hoạt 
vào trong phép tính vẫn chưa thuần thục như mong đợi. 
III. BÀN LUẬN
Để có thể can thiệp tốt cho các em học sinh có khó khăn về học tập, 
đặc biệt là về học toán, ngoài các kỹ năng sư phạm thì việc nắm chắc cơ sở 
lý thuyết về quá trình lĩnh hội số học ở trẻ em, nắm rõ đặc điểm và biểu 
hiện khó khăn ở các em có khó khăn tính toán thì việc nắm chắc quy trình 
sàng lọc, lượng giá và xây dựng kế hoạch can thiệp một cách đúng đắn là 
điều vô cùng cần thiết.
194
 Để xây dựng kế hoạch can thiệp và đảm bảo đi đúng hướng và đem lại 
hiệu quả thì cần phải phân tích chính xác vấn đề khó khăn mà trẻ gặp phải 
(gặp phải ở đâu, ở vị trí nào) dựa trên các kết quả lượng giá ban đầu. Việc 
này mất nhiều thời gian nhưng cho phép nhà chuyên môn xác định đúng 
mục tiêu can thiệp và xây dựng kế hoạch cũng như lựa chọn công cụ phù 
hợp. Thật vậy, việc lượng giá và xác định các mục tiêu ưu tiên khi can thiệp 
cho phép việc hiểu rõ bản chất để có được hiệu quả lâu dài. Nếu can thiệp 
chỉ dựa trên những cảm tính mà thiếu suy xét đến các yếu tố tiên quyết thì 
sự tiến bộ sẽ diễn ra không như ý muốn. Điều này có thể làm cho trẻ gặp 
khó khăn hơn. Bên cạnh đó, việc thiết kế vật dụng và hoạt động can thiệp 
phù hợp giúp cho trẻ hiểu được ý nghĩ và tạo thuận lợi cho việc lĩnh hội và 
vận dụng tốt hơn.
Ngoài ra, để giúp trẻ bù trừ những khó khăn của mình, một số lưu ý 
có thể được sử dụng như việc sử dụng máy tính hay thực hiện trên một 
công cụ có sẵn, hay một công thức mẫu cụ thể. Đồng thời nên tăng thêm 
thời gian làm bài và có tiêu chí đánh giá riêng cho những em khó khăn này. 
Việc ưu tiên này có thể được áp dụng cho các môn học khác liên quan đến 
khó khăn của trẻ.
Thuận lợi
Trong quá trình thực hành và nghiên cứu, bản thân người can thiệp 
đã biết sử dụng công cụ bổ trợ sàng lọc như test đánh giá trí thông minh 
(IQ) NEMI-II để ứng dụng và đánh giá sàng lọc ban đầu.
Xét về tính ứng dụng việc sử dụng các kiến thức, kết quả nghiên cứu 
trước đó ở nước ngoài trong việc dạy toán dễ dàng và phù hợp với trẻ. Đặc 
biệt có thể tham khảo các mẫu bài tập, các trò chơi hay các chương trình 
can thiệp có tính gợi ý ở nước ngoài để ứng dụng trong thực tiễn trong quá 
trình can thiệp.
Hạn chế 
Đây thực sự vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ và chưa có nhiều công trình 
nghiên cứu, các công cụ đánh giá hiện nay chưa được chuẩn hóa như là 
một công cụ chính thức để đánh giá phát triển về RLPTTT trên trẻ em Việt 
Nam, vì vậy tác giả gặp nhiều trở ngại trong việc xác định mức độ biểu 
hiện rối loạn dựa trên mẫu chung.
195
Nhận thức của giáo viên và phụ huynh về các vấn đề liên quan đến rối 
loạn phát triển tính toán còn hạn chế, cản trở cơ hội tiếp cận các dịch vụ 
can thiệp để cải thiện các vấn đề liên quan đến RLPTTT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Thảo Nguyên (2014). Mô tả và hỗ trợ một trường hợp trẻ gặp khó khăn 
về toán đếm. Kỷ yếu hội thảo khoa học Nhận biết, đánh giá, can thiệp trẻ có 
khuyết tật học tập. Khoa Tâm lý học, Viện Nghiên cứu giáo dục Việt Nam 
và World Human Future đồng tổ chức, NXB ĐHQG TP HCM.
Hoàng Thị Vân & Trần Quốc Duy (2014). Tedi – Math VN – Trắc nghiệm đánh 
giá các năng lực toán học dành cho trẻ em Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa 
học Nhận biết, đánh giá, can thiệp trẻ có khuyết tật học tập. Khoa Tâm lý 
học, Viện Nghiên cứu giáo dục Việt Nam và World Human Future đồng tổ 
chức, NXB ĐHQG TP HCM.
Tập thể học viên và giảng viên Khóa đào tạo “Nhận diện, lượng giá và can thiệp 
các rối loạn chuyên biệt học tập khóa 2016-2019”. Trắc nghiệm sàng lọc 
rối loạn tính toán TTA, kết quả mẫu hiệu chuẩn phiên bản Việt Nam 2018, 
Khoa Tâm lý học Đại học KHXH&NV – ĐHQG-HCM, Đại học Louvain 
& Đại học Liège.
Tài liệu tiếng Anh
American Psychiatric Association (2000). Diagnostic and Statistical Manual of 
Mental Disorders ([DSM-IV-TR], 4th edition, revised). Washington, DC: 
American Psychiatric Association.
Baroody, A. J., & Ginsburg, H. P. (1986). The relationship between initial 
meaningful and mechanical knowledge of arithmetic. Conceptual and 
procedural knowledge: The case of mathematics, 75, 112.
Barbaresi, W. J., Katusic, S. K., Colligan, R. C., Weaver, A. L., & Jacobsen, S. J. 
(2005). Math learning disorder: Incidence in a population-based birth 
cohort, 1976-82, Rochester, Minn. Ambulatory Pediatrics, 5(5), 281-289.
Dirks, E., Spyer, G., van Lieshout, E. C. D. M., & de Sonneville, L. (2008). 
Prevalence of combined reading and arithmetic disabilities. Journal of 
Learning Disabilities, 14, 460-473.
Fuson, K. C., Richards, J., & Briars, D. J. (1982). The acquisition and elaboration 
of the number word sequence. In Children’s logical and mathematical 
cognition, 33-92. Springer, New York, NY.
196
Fuson, K. C., Smith, S. T., & Cicero, A. M. L. (1997). Supporting Latino first 
graders’ ten-structured thinking in urban classrooms. Journal for Research 
in Mathematics Education, 28(6), 738-766.
Geary, D. C. (2004). Mathematics and learning disabilities. Journal of Learning 
Disabilities, 37, 4-15.
Gross-Tsur, V., Manor, O., & Shalev, R. S. (1996). Developmental dyscalculia: 
prevalence and demographic features. Developmental Medicine and Child 
Neurology, 38, 25-33.
Hein, J., Bzufka, M. W., Neumärker, K.-J. (2000). The specific disorder of 
arithmetic skills, Prevalence studies in a rural and an urban population 
sample and their clinico-neuropsychological validation. Eur Child Adolesc 
Psychiatry, 9 Suppl 2: II87-101. doi: 10.1007/s007870070012
Landerl, K., & Moll, K. (2010). Comorbidity of learning disorders: prevalence 
and familial transmission. Journal of Child Psychology and Psychiatry, 51, 
287-294.
Lewis, C., Hitch, G. J., & Walker, P. (1994). The prevalence of specific arithmetic 
difficulties and specific reading difficulties in 9-year-old to 10-year-old boys 
and girls. Journal of Child Psychology and Psychiatry and Allied Disciples, 
35, 283-292.
Lê, M. L. T., & Noël, M. P. (2020). Transparent number-naming system gives only 
limited advantage for preschooler’s numerical development: Comparisons 
of Vietnamese and French-speaking children. PloS one, 15(12), e0243472.
Temple, C.M. (1992). Developmental dyscalculia. In S. J. Segalowitz & I. Rapin 
(Eds.). Handbook of neuropsychology: Vol. 7, Child Neuropsychology, 211-
222. New York: Elsevier. 
Parveva, T., Noorani, S., Ranguelov, S., Motiejunaite, A., & Kerpanova, V. (2011). 
Mathematics Education in Europe: Common Challenges and National 
Policies. Education, Audiovisual and Culture Executive Agency, European 
Commission. Available from EU Bookshop.
Raja, B., & Kumar, S. P. (2011). Researches on Learning Disabilities--Where Are 
We?. Journal on Educational Psychology, 4(4), 11-20.
Siegler, R.S. (1987). Strategy choices in subtraction. In JA Sloboda & D. Rogers 
(Eds.). Keele cognition seminars, Vol. 1. Cognitive processes in mathematics, 
81-106.
Van Nieuwenhoven, C., Grégoire, J., & Noël, M-P. (2005). Tédi-Math. Test 
diagnostique des compétences de base en mathématique. Paris: Editions du 
centre de psychologie appliquée.
Von Aster, M. (2000). Developmental cognitive neuropsychology of number 
processing and calculation: varieties of developmental dyscalculia. 
European Child and Adolescent Psychiatry, 9, 41-57.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_truong_hop_mot_tre_hoc_sinh_lop_2_co_kho_khan_ve.pdf nghien_cuu_truong_hop_mot_tre_hoc_sinh_lop_2_co_kho_khan_ve.pdf