Quốc hội đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của 
Bộ Luật Tồ tụng dân sự, trong đó một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng lần 
này là việc thay đổi thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
Quốc hội đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của 
Bộ Luật Tồ tụng dân sự, trong đó một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng lần 
này là việc thay đổi thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. 
Cụ thể, trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân 
sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp về quyền sở 
hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý; chiếm hữu; tranh 
chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Những điểm mới của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ Tố tụng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những điểm mới của Luật sửa đổi bổ 
sung một số điều của Bộ Tố tụng dân sự 
Quốc hội đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của 
Bộ Luật Tồ tụng dân sự, trong đó một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng lần 
này là việc thay đổi thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. 
Quốc hội đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của 
Bộ Luật Tồ tụng dân sự, trong đó một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng lần 
này là việc thay đổi thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. 
Cụ thể, trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân 
sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp về quyền sở 
hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý; chiếm hữu; tranh 
chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. 
Các tranh chấp không thuộc các trường hợp nêu trên thì thời hiệu khỏi kiện vụ án 
dân sự là vẫn là 02 năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và 
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm như quy định trước đây. 
Luật cũng sửa đổi một số quy định theo hướng mở rộng quyền giải quyết của Tòa 
án trong các vụ việc, vụ án về dân sự, theo đó, yêu cầu tuyên bố văn bản công 
chứng vô hiệu và yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia 
tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự 
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. 
Các tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được bổ sung 02 
loại là: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và 
Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của 
pháp luật về thi hành án dân sự. 
Đương sự trong các vụ việc dân sự có thêm quyền được trực tiếp đưa ra câu hỏi 
với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc đề 
xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau 
hoặc với người làm chứng (quy định trước đây chỉ cho phép đương sự đề xuất với 
Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân 
chứng). 
Cũng trong Luật sửa đổi, bổ sung lần này có các quy định chi tiết về trình tự, thủ 
tục đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo 
thủ tục giám đốc thẩm; bên cạnh đó còn quy định thêm thủ tục mới là “Thủ tục 
đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối 
cao”… 
Luật này được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 09 thông qua ngày 29/03/2011 và 
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. 
Một số nội dung chủ yếu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố 
tụng dân sự 
Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự 
Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay, khi trình độ dân trí còn hạn chế, 
người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và 
lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án thì việc quy định tăng thẩm quyền của 
Viện kiểm sát (VKS) để VKS được tham gia các phiên tòa dân sự, qua đó thực 
hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình là cần thiết. Do vậy, Khoản 3 
Điều 1 của Luật quy định kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự 
như sau: 
1.VKSND kiểm sát việt tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các 
quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm 
cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. 
2.VKSND tham gia các phiên sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ 
thẩm đối với các vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng 
tranh chấp là tài sản công, lợi ích công, quyền sử dung đất, nhà hoặc có một bên 
đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. 
3. VKSND tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. 
2. Về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức 
Việc BLTTDS năm 2004 bỏ quy định về thẩm quyền này của Tòa án đã gây trở 
ngại cho hoạt động xét xử và không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của 
các bên đương sự trong trường hợp quyết định của cơ quan, tổ chức khác rõ ràng 
trái pháp luật nhưng không được hủy bỏ. Thực tiễn thị hành BLTTDS cho 
thấytrong quá trình xét xử vụ án dân sự, có những quyết định của cơ quan, tổ chức 
khác liên quan đến vụ án rõ ràng trái pháp luật, nếu Tòa án chỉ có quyền kiến nghị 
hủy bỏ thì Tòa án phải dừng việc giải quyết vụ án và chờ cơ quan, tổ chức khác 
xem xét hủy bỏ quyết định trái pháp luật, sau đó giải quyết vụ án mới được tiếp 
tục. Vì vậy, Khoản 8 Điều 1 đã quy định bổ sung Điều 32a về thẩm quyền của Tòa 
án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức theo hướng khi giải quyết vụ 
việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ 
quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi 
ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải 
quyết. Trong trường hợp này, cơ quan , tổ chức, người có thẩm quyền của cơ 
quan, tổ chức đó có quyền và nghĩa vụ tahm gia tố tụng. 
Đây là quy định mới nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương 
sự và tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động xét xử của Tòa án thời gian qua. 
3. Về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản 
Để góp phần rút ngắn thời gian, thủ tục cho Tòa án trong qua trình giải quyết vụ 
án, đặc biệt là thủ tục thành lập Hội đồng định giá, bảo đảm quyền tự định đoạt 
của đương sự trong việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá, khoản 20 Điều 1 của Luật 
sửa đổi, bổ sung Điều 92 về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản, theo hướng các 
bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm 
định giá tài sản. Tòa án chỉ ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong 
các trường hợp theo yêu cầu của một hoặc hai bên đương sự hoặc các bên thỏa 
thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức giá thấp nhằm trốn tránh 
nghĩa vụ với Nhà nước, đồng thời đề cao trách nhiệm tham gia hội đồng định giá 
của các cơ quan liên quan. Trường hợp cơ quan tài chính, các cơ quan chuyên môn 
không cử người tham gia Hội đồng định giá; người được cử tham gia Hội đồng 
định giá không tham gia mà không có lý do chính đáng thì tùy theo mức độ vi 
phạm bị xử lý theo quy định của pháp luật. 
4. Bổ sung về phương án hòa giải và trình tự hòa giải 
Cơ chế hòa giải tại Tòa án là biện pháp hữu hiệu để các bên đương sự giải quyết 
các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình và lao động. Việc hòa giải thành không 
chỉ đem lại lợi ích cho các đương sự cả về mặt tinh thần lẫn lợi ích kinh tế, mà còn 
giảm tải cho việc phải xét xử vụ án dân sự của Tòa án… Tuy nhiên, BLTTDS hiện 
hành chưa có quy định về phương thức và trình tự hòa giải dẫn đến khi thực hiện 
thủ tục hòa giải tại Tòa án, nhiều Thẩm phán còn gặp nhiều lúng túng khi thực 
hiện việc hòa giải dẫn đến hiệu quả hòa giải chưa cao, do đó khoản 28 Điều 1 của 
Luật đã sửa đổi Điều 184 về thành phần hòa giải và bổ sung Điều 185a về trình tự 
hòa giải. 
5. Về thủ tục giám đốc thẩm 
Luật sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức đơn, thủ tục nhận đơn và xem xét đơn 
đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ 
tục giám đốc thẩm. Đồng thời, quy định đương sự có quyền đề nghị kháng nghị 
giám đốc thểm trong thời hạn 1 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực 
pháp luật. Giữ nguyên quy định về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm của người 
có quyền là 3 năm. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị giám đốc thểm có các 
điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo giài thêm hai năm, kể từ ngày 
thời hạn kháng nghị; Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 
284 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 
này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; Bản án, quyết định của Tòa án đã có 
hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 của Bộ luật 
này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của 
người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai 
lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó. 
6. Về xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm 
phán TANDTC 
Thực tiễn công tác giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao cũng đã phát hiện 
một số quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có 
sai lầm nghiêm trọng nhưng pháp luật tố tụng hiện hành cũng chưa quy định về 
vấn đề xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Mặt khác, 
khoản 1 Điều 21 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định Hội đồng Thẩm phán 
TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chứ 
không quy định quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là quyết định cuối 
cùng, do vậy cần thiết kế cơ chế đặc biệt khắc phục bất cập nêu trên. Do đó, khoản 
52 Điều 1 của Luật đã bổ sung Chương XIXa quy định thủ tục đặc biệt xem xét lại 
quy định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, như sau: 
1. Khi có căn cứ xác đinh quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có vi 
phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm 
thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán TANDTC, đương 
sự không biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban Thường vụ 
Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng 
VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC thì Hội đồng Thẩm phán 
TANDTC xem xét lại quyết định đó. 
2. Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chánh án TANDTC 
có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán TANDTC để xem xét lại quyết định 
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. 
3. Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Việ 
trưởng VKSNDTC hoặc Chánh án TANDTC có phát hiện vi phạm, tình tiết mới 
thì Chánh án TANDTC có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán TANDTC 
xem xét kiến nghị, đề nghị đó. 
Trường hợp nhất trí với kiến của UBTVQH, kiến nghị của Viện trưởng 
VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC, thì Hội đồng Thẩm phán 
TANDTC ra quyết định giao Chánh án TANDTC tổ chức nghiên cứu hồ sơ vụ án, 
báo cáo Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét, quyết định. Trường hợp Hội 
đồng Thẩm phán TANDTC không nhất trí với kiến nghị, đề nghị thì phải thông 
báo bằng văn bản và nêu rõ lý do… 
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2012 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 140_9916.pdf 140_9916.pdf