Tuyến yên trước tiết ra các gonadotrpins quan trọng là FSH (folliclestimulating hormone), LH (luteinizing hormone) dưới sự điều khiển của GnRH do 
vùng dưới đồi tiết ra. Các tế bào Leydig nằm giữa các ống sinh tinh ở tinh hoàn. 
Tế bào Leydig tổng hợp và tiết ra testosterone dưới tác động của LH. FSH và 
Testosterone kích thích quá trình sinh tinh thông qua các tế bào Sertoli ở ống sinh 
tinh. Testosterone ức chế tiết GnRH và LH. Inhibin và follistatin ức chế tiết FSH; 
activin kích thích tiết FSH. Ngoài tác động lên quá trình sinh tinh, testerone còn 
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và phân bố lông trên cơ thể, chuyển hóa 
xương, phát triển và phân bố khối cơ, các đặc tính sinh dục thứ phát và chức năng 
hệ sinh dục nam. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Nội tiết sinh sản nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI TIẾT SINH SẢN NAM 
Giới thiệu 
Tuyến yên trước tiết ra các gonadotrpins quan trọng là FSH (follicle-
stimulating hormone), LH (luteinizing hormone) dưới sự điều khiển của GnRH do 
vùng dưới đồi tiết ra. Các tế bào Leydig nằm giữa các ống sinh tinh ở tinh hoàn. 
Tế bào Leydig tổng hợp và tiết ra testosterone dưới tác động của LH. FSH và 
Testosterone kích thích quá trình sinh tinh thông qua các tế bào Sertoli ở ống sinh 
tinh. Testosterone ức chế tiết GnRH và LH. Inhibin và follistatin ức chế tiết FSH; 
activin kích thích tiết FSH. Ngoài tác động lên quá trình sinh tinh, testerone còn 
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và phân bố lông trên cơ thể, chuyển hóa 
xương, phát triển và phân bố khối cơ, các đặc tính sinh dục thứ phát và chức năng 
hệ sinh dục nam. 
 GnRH: gonadotropin releasing hormone 
GnRH là một decapeptide do vùng dưới đồi tiết ra. Đây là một chất nội tiết 
thần kinh (neurohormone). Thời gian bán hủy của GnRH ngắn, khỏang 10 phút. 
GnRH bị phân hủy ở tuyến yên. GnRH được tiết theo nhịp, do đó, FSH và LH 
cũng được tiết ra từng đợt vào tuần hoàn. 
Sự chế tiết GnRH được điều tiết bởi Testosterone. Testosterone có tác dụng 
phản hồi âm tính làm vùng dưới đồi giảm tiết GnRH và giảm sự nhạy cảm của 
tuyến yên đối với GnRH. Testosterone có thể chuyển thành DHT 
(dihydrotestosterone), cũng có tác động ức chế ngược làm giảm tiết GnRH và LH. 
GnRH tác động bằng cách gắn kết với thụ thể ở tuyến yên. GnRH có khả 
năng điều tiết số lượng và họat động của thụ thể. Tác động này tùy thuộc vào tần 
suất chế tiết và nồng độ GnRH. Hoạt động của các thụ thể hiệu ủa nhất khi GnRH 
được tiết theo xung sinh lý đều đặn. Nếu GnRH được cung cấp liên tục, sẽ dẫn đến 
trơ hóa thụ thể và giảm tiết gonadotropins. 
Gonadotropins 
LH và FSH là những glycoprotein được tuyến yên trước tiết ra, có tác động 
kiểm soát sự trưởng thành và chức năng của tuyến sinh dục. Cấu trúc của LH và 
FSH gồm 2 chuỗi polypeptide và . Cấu trúc của chuỗi của LH và hCG rất giống 
nhau. Do đó, hCG có tác động tương đương với LH trên thụ thể, nhưng hCG có 
thời gian bán hủy dài hơn. 
Thời gian bán hủy của LH là 20 phút và của FSH là 2 giờ. Mặc dù cả hai 
gonadotropins đều được tuyến yên tiết ra theo các xung GnRH, LH được tiết ra 
với tần suất cao hơn so với FSH. LH và FSH sau khi được tổng hợp sẽ được dự trữ 
tại các túi tiết ở tuyến yên và sẵn sàng chế tiết khi nhận được kích thích của 
GnRH. 
LH và FSH đều cần thiết cho quá trình sinh tinh. LH tác động lên quan 
trình sinh tinh thông qua testosterone, đây là nội tiết quan trọng để khởi phát sinh 
tinh. FSH đóng vai trò quan trọng để duy trì quá trình sinh tinh bình thường. 
Inhibin B được tế bào Sertoli tiết ra dưới tác động của FSH. Inhibin lại ức chế 
tuyến yên tiết FSH. 
Testosterone (T) 
Androgens rất cần thiết cho sự phát triển và hoạt động của tinh hoàn, sự 
phát triển của các đặc tính sinh dục thứ phát của nam giới, hệ thống cơ-xương, 
libido và quá trình sinh tinh trùng. T là androgen quan trọng nhất. Tinh hoàn tiết ra 
T (5-10mg/ngày). Nguồn androgen quan trọng khác của cơ thể là từ tuyến thượng 
thận. T do tế bào Leydig trong tinh hoàn tổng hợp và chế tiết. Sự sản xuất và chế 
tiết T ở tinh hoàn được điều tiết bởi LH tuyến yên và các yếu tố nội tại tinh hoàn 
(paracrine). Tác động của LH được sự hỗ trợ của FSH. FSH có tác dụng tạo nên 
các thụ thể LH trên tế bào Leydig ở tinh hoàn. 
T được tổng hợp từ cholesterol. Sản phẩm trung gian của qui trình này là 
pregnenolone. T là sản phẩm chế tiết chính của tinh hoàn. Các sản phẩm phụ bao 
gồm: DHT (Dihydrotestosterone), androsterone, androstenedione, 17-
hydroxyprogesterone, progesterone và pregnolone. T là tiền chất để tổng hợp 2 nội 
tiết tố quan trọng bên ngoài tinh hoàn là DHT và estradiol. 
T chuyển hóa thành DHT chủ yếu tại các cơ quan đích. DHT có ái lực cao 
hơn T đối với thụ thể androgenic. Tại một số cơ quan đích, DHT là androgen chủ 
yếu gây các tác động sinh học, như mào tinh, ống dẫn tinh, túi tinh, tiền liệt tuyến. 
Androsstenedione là tiền chất quan trọng cho việc tổng hợp estrogen ở ngoài tinh 
hoàn. 
T được tiết ra đi vào vòng tuần hoàn và lòng các ống sinh tinh. Nồng độ T 
trong lòng ống sinh tinh cao khỏang 50-100 lần so với trong máu. Nồng độ T cao 
cần thiết cho quá trình sinh tinh trùng tại tinh hoàn và trưởng thành của tinh trùng 
tại mào tinh. FSH gắn với tế bào Sertoli và kích thích tế bào này tiết ra ABP 
(androgen binding protein). ABP giúp duy trì nồng độ cao T trong lòng ống sinh 
tinh, đảm bảo cho quá trình sinh tinh. Tế bào Sertoli ở tinh hoàn tương đương với 
tế bào hạt và tế bào Leydig tương đương với tế bào vỏ ở buồng trứng. 
Nồng độ T tăng trong máu sẽ tạo phản hồi âm tính làm giảm tiết LH. T và 
DHT ức chế hạ đồi bằng cách giảm tần số tiết GnRH. Estrogen làm giảm tiết 
gonadotropin bằng cách cường độ chế tiết FSH, LH. Progesterone cũng ức chế tiết 
gonadotropins. 
T huyết thanh tồn tại dưới 3 dạng khác nhau: tự do, gắn với albumin, gắn 
với SHBG (sex hormone-binding globulin). Khoảng 2% tồn tại ở dạng tự do, 44% 
gắn với SHBG và 54% gắn với albumin. T sinh khả dụng (Bioavailable 
testosterone) bao gồm testosterone tự do và T gắn với albumin. SHBG có ái lực rất 
cao đối với testosterone. Nếu SHBG tăng, nồng độ testosterone tự do sẽ bị giảm 
đáng kể. Nồng độ SHBG ở nam giới chỉ bằng khoảng 1/3 – 1/2 so với nữ. SHBG 
tăng ở nam giới bị suy tuyến sinh dục. Định lượng T nên thực hiện vào buổi sáng 
để tránh ảnh hưởng của sự thay đổi chế tiết testosterone theo chu kỳ trong ngày. 
Free testosterone index (FTI) = total testosterone / 
SHBG 
Nồng độ T toàn phần 
< 200ng/dL ở nam giới có triệu chứng được 
chẩn đoán là suy tuyến sinh dục. 
200-400ng/dL có thể có lợi khi điều trị bổ sung 
T 
> 400ng/dL loại trừ suy tuyến sinh dục 
Hiện nay, ở Việt nam chỉ định lượng được T toàn phần. Điều này giúp khó 
đánh giá được hoạt động của testosterone trong cơ thể. Có thể tính dược chỉ số 
testosterone tự do (FTI) nếu định lượng được SHBG. Ngoài ra có thể ước tính 
được testosterone tự do (calculated free testosterone) thông qua các chỉ số: 
testosterone toàn phần, SHBG và Albumin huyết tương. 
Tác động sinh học của androgen 
Androgens đóng vai trò quan trọng torng suốt cuộc sống của nam giới. 
Trong giai đoạn phôi thai, T quyết định sự biệt hóa của cơ quan sinh dục. Trong 
giai đoạn dậy thì, T giúp phát triển các đặc tính sinh dục thứ phát và kiểu hình nam 
giới. T đóng vai trò không thể thiếu để duy trì các họat động sinh sản của nam giới 
và kiểu hình nam giới trong suốt cuộc sống. 
Cả T và DHT đều cần thiết cho sự phát triển của dương vật trong gia đoạn 
dậy thì. Tuy nhiên, thụ thể androgen không còn hiện diện ở nam giới đã trưởng 
thành. Suy tuyến sinh dục sau tuổi trưởng thành không làm giảm đáng kể thể tích 
dương vật. Ngược lại, bổ sung T sau dậy thì không thể làm tăng thể tích dương 
vật. 
T có tác động trực tiếp lên chuyển hóa của cả cơ vân và cơ trơn. T giúp làm 
tăng khói lượng cơ. Thiếu hụt T sẽ dẫn đến teo cơ. Cả androgen và estrogen đều 
làm tăng mật độ xương. Androgen đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của 
da và lông, tóc. Các tác động này cũng phụ thuộc vào vị trí da, lông và độ nhạy 
với androgen của nang lông ở từng người. Androgen có tác động tăng tạo máu và 
tăng tổng hợp hemoglobin. 
Trong giai đoạn dậy thì, testosterone làm tăng kích thước thanh quản và 
thay đổi dây thanh âm ở thiếu niên nam là vỡ giọng và giọng trở nên trầm hơn so 
với nữ. Cao độ của giọng nói nam giới phụ thuộc vào thời gian kéo dài của giai 
đoạn dậy thì, sau đó thì không thay đổi nữa. 
Testosterone có các tác động tâm lý quan trọng. Người ta thấy có mối liên 
quan mật thiết nồng độ androgen với hoạt động về tinh thần, trạng thái tâm thần và 
sự tự tin. Giảm androgen thường đi kèm với giảm hứng thú và động cơ trong cuộc 
sống, trầm cảm, giảm libido và hoạt động tình dục. 
BS Hồ Mạnh Tường 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 noi_tiet_sinh.pdf noi_tiet_sinh.pdf