Phân tích các bất ổn tài chính của Việt Nam theo khung phân tích bảng cân đối tài sản

Bài viết sử dụng khung phân tích bảng cân đối tài sản và phân tích nhân tố để phân tích bất ổn tài

chính của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Kết quả phân tích cho thấy sự sụt giảm giá trị bảng cân

đối tài sản của khu vực ngân hàng, khu vực doanh nghiệp, thâm hụt ngân sách. đã gây ra các bất ổn

tài chính tại Việt Nam. Trên cơ sở kết quả phân tích bài viết đã đưa ra một số hàm ý chính sách để ổn

định tài chính.

pdf18 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 11/05/2022 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Phân tích các bất ổn tài chính của Việt Nam theo khung phân tích bảng cân đối tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2 năm ngoài việc bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Thế giới cùng với đó là những nguyên nhân như đã phân tích ở trên. Kết quả này phù hợp nghiên cứu của Hạ Thị Thiều Dao và Nguyễn Thị Tuyết Trinh (2013) cho thấy trong giai đoạn 2008 - 2011 bất ổn vĩ mô của Việt Nam cao hơn trước. Trong đó, nhân tố quan trọng nhất quyết định bất ổn tài chính của Việt Nam là: Chất lượng tài sản, tính thanh khoản của khu vực tài chính và khả năng sinh lời của khu vực tài chính và doanh nghiệp (đại diện là các doanh nghiệp niêm yết) chiếm tỉ trọng 66,7%; Chỉ số an toàn vốn của khu vực tài chính và đòn bẩy tài chính của khu vực doanh nghiệp chiếm tỉ trọng 23,6%. Bảng 10. Đánh giá sự bất ổn thị trường tài chính Việt Nam 2008 - 2012 NĂM f1 f2 F XẾP HẠNG 2008 0,125835 0,251669 12,71658 5 2009 0,164437 0,328874 13,34425 4 2010 -0,03253 -0,06505 13,80472 3 2011 -0,03195 -0,06391 16,51917 2 2012 0,192026 0,384052 18,62152 1 Nguồn: Tính toán của tác giả 3.5. Tại sao giá trị bảng cân đối tài sản bị sụt giảm? Như chúng tôi đã phân tích ở trên về sự sụt giảm giá trị bảng cân đối tài sản của khu vực tài chính và khu vực phi tài chính là nguyên nhân gây ra bất ổn tài chính tại Việt Nam. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: Điều gì khiến cho giá trị bảng cân đối tài sản các khu vực bị sụt giảm? Quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam đã dẫn đến quá trình tăng trưởng tín dụng “dễ dãi” như trong giai đoạn vừa qua, cung tín dụng dồi dào đã khơi thông các hoạt động đầu cơ vào chứng khoán và bất động sản, làm gia tăng đòn bẩy tài chính của khu vực DN, đây chắc chắn là căn nguyên chủ yếu của tình trạng gia tăng nợ xấu, làm suy giảm giá trị bảng cân đối tài sản của hệ thống ngân hàng và gây ra các bất ổn tài chính. Đây cũng là một cảnh báo khi mà các nghiên cứu cho thấy sự gia tăng tín dụng quá mức chính là một trong các nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính ở Hàn Quốc, các quốc gia Đông Á và Mexico (Hahm và Mishkin, 2000). Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam trước khi gia nhập WTO chỉ hơn 69% (năm 2006), sau khi gia nhập WTO vào năm 2007, tỷ lệ này tăng lên và đạt mức cực đại hơn 124% vào năm 2010 trước khi giảm xuống còn còn hơn 108% vào năm 2013. Khi so sánh với các nền kinh tế trong khu vực: liên tục trong nhiều năm, khi các nền kinh tế trong khu vực đều giữ nguyên TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 Trang 105 hay giảm mạnh tỷ lệ dư nợ tín dụng so với GDP thì Việt Nam lại tăng nhanh hiếm thấy khối lượng và tỷ trọng dư nợ tín dụng. Việc gia tăng trưởng tín dụng nóng trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm giá trị bảng cân đối tài sản của các ngân hàng là do khả năng quản trị của các ngân hàng, chất lượng thẩm định các khoản vay chưa tốt, sự yếu kém và rủi ro đạo đức đội ngũ nhân viên ngân hàng cùng với việc tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn quá cao đã dẫn đến việc gia tăng nợ xấu. Tự do hóa tài chính dẫn đến sự tăng trưởng bùng nổ số lượng các ngân hàng tại Việt Nam cùng với đó là các nới lỏng sự giám sát và quy định chặt chẽ các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng, hệ thống kế toán kiểm còn hạn chế và sự không minh bạch của các TCTD. Thiếu quy định và giám sát, ngân hàng và công ty tài chính sẽ cho vay rủi ro trong giai đoạn bùng nổ kinh tế và do đó rơi vào khó khăn thanh khoản hay thậm chí mất khả năng thanh toán trong giai đoạn suy thoái và điều này làm suy giảm giá trị bảng cân đối tài sản của các ngân hàng. Ngoài ra, hạn chế của hệ thống kế toán kiểm toán của Việt Nam so với quốc tế làm cho các báo cáo tài chính của các ngân hàng không rõ ràng, minh bạch, làm phóng đại khả năng sinh lời, giá trị tài sản và khả năng trả nợ, các quy định và phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng chưa phát huy hiệu quả, nợ xấu chưa phản ánh đúng thực chất và gây khó khăn cho công tác quản lý hoạt động ngân hàng. Yếu tố tâm lý ỷ lại trông chờ vào sự giải cứu của Chính phủ cũng là một nguyên nhân làm sụt giảm giá trị bảng cân đối tài sản của khu vực tài chính (ngân hàng). Với chính sách điều hành quản lý đảm bảo an toàn hệ thống của ngân hàng nhà nước đã tạo ra tâm lý ỷ lại cho các ngân hàng nghĩa là một vài ngân hàng cứ thoải mái thực hiện hoạt động kinh doanh có rủi ro, chấp nhận nhiều rủi ro để kiếm lời, bất chấp mình có khả năng quản lý rủi ro đó hay không, khi thua lỗ, gặp khó khăn thì được NHNN hỗ trợ hoặc cho nhập lại những ngân hàng yếu kém chứ không cho phá sản. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài tại Việt Nam đe dọa sự ổn định tài chính như lạm phát cao và bất ổn, lãi suất cao chèn lấn khu vực tư nhân, thâm hụt vãng lai kéo dài gây bất ổn tỉ giá, tăng trưởng chậm do hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp, v.v... Trong những năm gần đây, chính sách tài khóa nới lỏng kích cầu đầu tư khiến tỷ lệ bội chi hàng năm khoảng 5% GDP, sức ép tăng cung tiền vào lưu thông không nhỏ đã khiến lạm phát tăng cao trở lại (giai đoạn 2007 đến nay) và gây bất ổn tài chính. Sau một thời gian dài tăng trưởng tín dụng nóng, chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách tài khóa mở rộng đã hình thành bong bóng tài sản đặc biệt là giá bất động sản và chứng khoán tăng trưởng nóng cùng với đó lạm phát bùng lên vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011. Trước tình hình đó, Chính phủ đã thắt chặt chính sách tiền tệ, tác động mạnh nhất của chính sách tiền tệ đã làm suy kiệt tín dụng (credit crunch) dẫn đến giảm tổng cầu, gia tăng tồn kho của doanh nghiệp khiến doanh nghiệp gặp khó khăn. Số lượng doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc phá sản tăng lên. Chính sách thắt chặt tiền tệ làm gia tăng lãi suất khiến cho khả năng trả nợ của doanh nghiệp và hộ dân suy giảm trong điều kiện khó khăn về đầu ra, thị trường bất động sản giảm giá và đóng băng trong khi phần lớn tài sản thế chấp các khoản vay có nguồn gốc bất động sản, điều này làm gia tăng sự bất ổn, bởi vậy các TCTD có xu hướng thận trọng hơn khi cho vay để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và điều này là nguyên nhân làm suy giảm giá trị bảng cân đối tài sản của khu vực tài chính và phi tài chính (doanh nghiệp). Như vậy có thể thấy với chính sách tiền tệ tùy tiện, khó dự đoán, làm gia tăng Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 Trang 106 sự không chắc chắn đã khiến cho các bất ổn tài chính của Việt Nam gia tăng trong các năm gần đây. 4. CÁC GỢI Ý CHÍNH SÁCH Kết quả phân tích các bất ổn tài chính của Việt Nam dựa trên khung phân tích bảng cân đối tài sản đã giúp chúng ta có cái nhìn về các nguyên nhân gây bất ổn tài của Việt Nam và cơ sở cho một số thảo luận chính sách. 4.1. Các khía cạnh vi mô Thứ nhất, nghiên cứu về bất ổn tài chính cho thấy trong quá trình tự do hóa tài chính cùng với đó là các nới lỏng sự giám sát và qui định chặt chẽ các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng, hệ thống kế toán kiểm còn hạn chế đã làm sụt giảm giá trị tài sản bảng cân đối tài sản của khu vực tài chính. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi phương thức quản lý và giám sát hệ thống tài chính, ngân hàng trong quá trình tự do hóa tài chính. Để ổn định tài chính, NHNN xem xét chuyển từ phương thức giám sát truyền thống dựa trên chất lượng tài sản của ngân hàng tại một thời điểm và mức độ đảm bảo vốn theo yêu cầu. Mặc dù phương thức giám sát truyền thống tập trung vào việc giảm thiểu các hoạt động rủi ro của ngân hàng, nhưng phương thức giám sát này là chưa đủ. Thứ nhất là khó khăn trong việc đo lường vốn. Ngoài ra, trong bối cảnh hiện nay mức độ tinh vi ngày càng tăng của hệ thống ngân hàng, với sự phát triển cả về số lượng, quy mô và loại hình hoạt động (nhất là các công cụ phái sinh), các ngân hàng có thể sử dụng các thủ thuật để vượt qua các chỉ tiêu giám sát truyền thống này và sẵn sàng tham gia vào các hoạt động rủi ro hơn trong tương lai. Hơn nữa, kết quả phân tích nhân tố cho thấy nhóm hệ số an toàn vốn chỉ chiếm tỷ lệ 23,6% trong nhóm các tác nhân gây bất ổn tài chính và trong thực tế hệ số an toàn vốn của các ngân hàng không phản ánh chính xác sức khỏe tài chính của các ngân hàng. Việc giám sát hoạt động ngân hàng kết hợp giữa phương thức giám sát truyền thống với phương thức đánh giá sự lành mạnh của quy trình quản trị ngân hàng theo khung khuyến dụng ở nhiều nước như CAMELS/ Basel. Thứ hai, cần loại bỏ tâm lý ỷ lại của các ngân hàng. Sự sụt giảm bảng cân đối tài sản của ngân hàng có nguyên nhân là do chính sách đảm bảo an toàn cho hệ thống, điều này đã khuyến khích hiện tượng ỷ lại nghĩa là một vài ngân hàng cứ thoải mái thực hiện hoạt động kinh doanh có rủi ro, chấp nhận nhiều rủi ro để kiếm lời, bất chấp mình có khả năng quản lý rủi ro đó hay không. Vì vậy trong thời gian tới NHNN có thể áp dụng biện pháp phá sản một số TCTD yếu kém sau khi đã áp dụng các giải pháp xử lý khác nhưng không thành công. Thứ ba, kết quả phân tích các nhân tố cho thấy chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu, khả năng sinh lời và tính thanh khoản ảnh hưởng đến sự bất ổn (hay ổn định) của thị trường tài chính (trọng số 66,7%), điều này hàm ý rằng tự bản thân các ngân hàng cần nâng cao năng lực tài chính, minh bạch tình hình tài chính và tài sản có rủi ro của mình để có thể chống đỡ lại những cú sốc có thể làm sụt giảm giá trị bảng cân đối tài sản của mình. Thứ tư, đối với các doanh nghiệp phi tài chính, trong giai đoạn hiện nay dưới sức ép nợ xấu của hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp cần phải thoái nợ để lành mạnh hóa bảng cân đối kế toán. Trong tương lai, Việt Nam sẽ không còn hiện tượng “dòng tiền dễ dãi” như trong quá khứ và doanh nghiệp muốn vay được vốn, phải thuyết phục được ngân hàng tính khả thi của dự án. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần đầu tư cho công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia có kiến thức về tài chính, kế toán, có khả năng làm các dự án vay và phải minh bạch về thông tin tài chính của mình. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 Trang 107 4.2. Các khía cạnh vĩ mô Thứ nhất, chính sách tiền tệ thắt chặt, chưa có mục tiêu nhất quán trong thời gian qua là một nguyên nhân làm sụt giảm giá trị tài sản của doanh nghiệp, khu vực tài chính từ đó gây ra bất ổn tài chính ở Việt Nam. Điều này hàm ý rằng một chính sách tiền tệ nhất quán với mục tiêu cuối cùng và mục tiêu trung gian xác định trước sẽ giúp ổn định tài chính. Thứ hai, kết quả phân tích cho thấy với tình hình thâm hụt ngân sách thường xuyên và kéo dài là một nguyên nhân gây bất ổn tài chính ở Việt Nam, vì vậy một chính sách tài khóa lành mạnh, cân bằng sẽ giúp ổn định tài chính và hỗ trợ chính sách tiền tệ tốt hơn. Nghiên cứu này được tài trợ bởi ĐHQG - HCM trong khuôn khổ đề tài mã số C2014 - 34 - 01 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Công ty chứng khoán VPBank. Báo cáo ngành ngân hàng Việt Nam (2014). [2]. Đinh Tuấn Minh. Bất ổn thị trường tài chính. Chương 3 - Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012: Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu, Ủy ban kinh tế quốc hội. NXB Tri Thức (2012). [3]. Frederic S. Mishkin. Global financial instability: Framework, events, issues. Journal of Economic Perspectives - Vol 13, No 4 - Fall 1999 - pp 3 - 20 (1999). [4]. Frederic S. Mishkin. The Economics of money, banking and financial markets. European edition. Pearson (2013). [5]. Hạ Thị Thiều Dao và Phạm Thị Tuyết Trinh. Bất ổn kinh tế vĩ mô Việt Nam nhìn từ chính sách tiền tệ. Tạp chí phát triển KH&CN, tập 16, số Q1 - 2013 (2013). [6]. HairJ. F. Jr, AndersonR. E, TathamR. L, and BlackW.C. Multivariate Data Analysis. 5th Edition (1998). [7]. J. H. Halm and F. S. Mishkin. The Korean financial crisis: an asymetric information perspective. Emerging Markets Reviews - pp 21 - 52 (2000). [8]. Mark Allen, Christoph Rosenberg, Christian Keller, Brad Setser, and Nouriel Roubini. A Balance Sheet Approach to Financial Crisis. IMF Working Paper - WP/02/210 (2002). [9]. Mundfrom DJ, Shaw DG, Tian LK. Minimum sample size recommendations for conductiong factor analysis. International Journal of Testing 5:2:p 159-168 (2005). [10]. Nguyễn Thị Cành và Hoàng Công Gia Khánh. Báo cáo thường niên thị trường tài chính Việt Nam 2013. NXB ĐHQG TPHCM (2014). [11]. Nguyễn Xuân Thành. Sức khỏe của doanh nghiệp: Làm gì để vực dậy? Bài tham luận tại Hội thảo Quốc gia (2012). [12]. Nhật Trung. Tỉ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động - những thông lệ quốc tế. Tạp chí Ngân hàng số 17 (2010). [13]. Phạm Thế Anh, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Trí Dũng, Tô Trung Thành. Nợ công và tính bền vững Ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai. Báo cáo nghiên cứu RS - 05. NXB Tri Thức (2013). [14]. Tô Trung Thành và Nguyễn Trí Dũng. Thách thức còn ở phía trước. Chương 1 - Báo cáo kinh tế vĩ mô 2013: Thách thức còn ở phía trước, Ủy ban kinh tế quốc hội. NXB Tri Thức (2013). [15]. Tổng cục thống kê. Sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2011. Nhà xuất bản thống kê (2013). [16]. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Báo cáo tổng quan thị trường tài chính 2013 (2014). Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 Trang 108 [17]. Ủy ban kinh tế quốc hội. Báo cáo kinh tế vĩ mô Việt Nam 2013: Thách thức còn ở phía trước. NXB Tri thức (2013a). [18]. Ủy ban kinh tế quốc hội. Kinh tế Việt Nam năm 2013: Tái cơ cấu nền kinh tế - Một năm nhìn lại. Sách tham khảo. NXB Tri thức (2013b). [19]. Ủy ban kinh tế quốc hội. Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa thu 2012 (2012). [20]. Vũ Quốc Huy, Nguyễn Thị Thu Hằng, Vũ Phạm Hải Đăng. Tỷ giá hối đoái giai đoạn 2000-2011: Mức độ sai lệch và tác động đối với xuất khẩu. Báo cáo nghiên cứu RS - 01 - Ủy ban kinh tế Quốc hội. NXB Tri Thức (2013). [21]. WB. Báo cáo đánh giá khu vực tài chính Việt Nam tháng 6/2014.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphan_tich_cac_bat_on_tai_chinh_cua_viet_nam_theo_khung_phan.pdf