Phân tích các yếu tố tác động đến dự phòng rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích các yếu tố tác động đến dự phòng rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam (gồm

27 NHTM Việt Nam từ 2008-2013). Dựa trên lý thuyết liên quan và khảo sát nghiên cứu trước về dự

phòng rủi ro tín dụng ở các nước phát triển và các nước đang phát triển, tác giả xây dựng mô hình và giả

thuyết để phân tích và tìm ra các yếu tố tác động đến dự phòng rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu đã tìm thấy thu nhập lãi ròng cận biên, tỷ lệ nợ xấu và quy mô ngân hàng có tác động

cùng chiều với tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, còn thu nhập trên tổng tài sản thì có tác động ngược chiều

với tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng. Với kết quả nghiên cứu thu được, nghiên cứu đã cung

cấp thông tin về các yếu tố tác động đến dự phòng rủi ro tín dụng của các NHTM. Từ đó đóng góp hữu

ích cho các cơ quan và các nhà quản trị đề ra những chính sách cải thiện rủi ro tín dụng tại các NHTM

Việt Nam.

pdf13 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 10/05/2022 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Phân tích các yếu tố tác động đến dự phòng rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bài nghiên cứu có dấu của hệ số hồi quy ngược với kết luận của Hess và các cộng sự (2008) tuy nhiên kết quả tương tự với giả thuyết đề ra và cũng trùng dấu với nghiên cứu của López-Espinosa, Moreno, Gracia (2011) và Garza - García (2010). Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng khó khăn, tỷ lệ nợ xấu tăng, dự phòng rủi ro tín dụng tăng, lãi thuần tăng của các ngân hàng có xu hướng tăng nhẹ khiến nhiều người chú ý cho thấy chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay ở mức cao. Theo lời của một chuyên gia phân tích, thời gian năm 2011 lãi suất huy động liên tục giảm, cộng với tài khoản tiền gửi thanh toán và trên thẻ ATM của khách hàng với lãi suất không kỳ hạn giúp giá vốn huy động bình quân của các ngân hàng thấp, tầm hơn 6% 24 KINH TẾ nhưng các nhà băng vẫn cho vay cao 10 - 11% một năm, như vậy, chênh lệch đầu ra - đầu vào của ngân hàng khá cao, trên 4%, trong khi năm 2010 lãi biên này tầm 3 - 3,5%. Theo Lê Đạt Chí (Trưởng bộ môn Đầu tư Tài chính, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên nói trên còn chưa phản ánh hết các chi phí hoạt động của ngân hàng (như N M không tính đến phí dịch vụ cũng như những thu nhập ngoài lãi khác, chi phí hoạt động, chi phí nhân sự và tài sản) cũng như chi phí dự phòng rủi ro của các ngân hàng. Theo khảo sát năm 2013 của KPMG thì tỷ lệ NIM cao nhất thường được quan sát thấy tại các ngân hàng với quy mô huy động vốn và cho vay truyền thống. Mặc khác, một số NHNN vẫn có thể hoạt động hiệu quả với tỷ lệ NIM thấp vì quy mô hoạt động lớn của họ.  Tỷ lệ nợ xấu (NPL) Biến này được đo lường bằng cách lấy nợ xấu chia cho tổng dư nợ cho vay. Chỉ tiêu này đánh giá khả năng thu nợ từ các khoản nợ đang được các ngân hàng sử dụng các biện pháp mạnh để đòi. Theo lý luận và theo kết quả nghiên cứu của Hasan và wall (2003), Perez và cộng sự (2006), Misman và Ahmad (2011) chỉ ra rằng có mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ nợ xấu với tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng. Theo kết quả mô hình hồi quy, dấu của hệ số hồi quy tương tự với giả thuyết đưa ra và của các nghiên cứu đã nêu, với giá trị thống kê p-value là 0,0902 có nghĩa là biến tỷ lệ nợ xấu có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 90%. Từ đó, ta có thể kết luận nghiên cứu đã tìm thấy tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng có tác động cùng chiều với tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng. Với diễn biến phức tạp của nợ xấu trong tình hình kinh tế hiện nay cho thấy tình hình kinh tế Việt Nam đang suy giảm như: hàng tồn kho của các doanh nghiệp tăng, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, số doanh nghiệp đóng cửa cũng gia tăng, Những khó khăn này tác động làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong thanh khoản dẫn đến các khoản doanh nghiệp vay ngân hàng cũng khó có khả năng trả nợ dẫn đến nợ xấu của ngân hàng gia tăng, để dự phòng cho những khoản vay có thể không thu được trong tương lai thì trích lập dự phòng của các ngân hàng cũng gia tăng từ đó cũng làm gia tăng tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng.  Thu nhập trên tổng tài sản (ROA) Biến ROA đo lường tỷ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản của ngân hàng. Tỷ số này cho biết tính hiệu quả của quá trình tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả chỉ tiêu cho biết bình quân cứ một đồng tài sản được sử dụng trong quá trình kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Theo lý luận và theo kết quả nghiên cứu của Karimiyan và các cộng sự (2013) chỉ ra rằng mối quan hệ tích cực giữa LLP với thu nhập và lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên, Misman và Ahmad (2011) và Mustafa và cộng sự (2012) chỉ ra rằng tồn tại mối quan hệ nghịch biến giữa LLP và ROA. Theo kết quả mô hình hồi quy, dấu của hệ số hồi quy tương tự với giả thuyết đưa ra, với giá trị thống kê p- value là 0.0020 có nghĩa là biến quy mô có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 99%. Từ đó, ta có thể kết luận nghiên cứu đã tìm thấy thu nhập trên tổng tài sản của ngân hàng có tác động ngược chiều với tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, kết quả trùng với kết quả mà Misman và Ahmad (2011) và Mustafa và cộng sự (2012) nghiên cứu trước đó. Kết quả này có thể giải thích rằng với tình hình kinh tế khó khăn ngành ngân hàng lâm vào suy thoái khủng hoảng vừa qua nguy cơ các khoản vay yếu kém không có khả năng thu hồi là rất dễ xảy ra làm cho các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nhiều hơn do chất lượng của danh mục khoản vay suy giảm. Bên cạnh đó, chất lượng của những con số thống kê về tình hình nợ xấu do các NHTM công bố nếu như phân loại theo chuẩn mực quốc tế thì sẽ ở cao hơn con số công bố hiện nay nhiều. Với tình hình khó khăn chưa cải thiện của doanh nghiệp hiện nay thì khoản mục trích lập dự phòng rủi ro tín dụng được dự báo sẽ tiếp tục tăng lên trong tương lai, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng dẫn đến làm tăng tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng lên và giảm tỷ lệ thu nhập trên tài sản xuống.  Quy mô ngân hàng (SIZE) Quy mô ngân hàng, được tính bằng cách lấy logarit của tổng tài sản. Theo lý luận và theo kết quả nghiên cứu của Foos và các cộng sự (2010), Suluck và Supat (2012) không tìm TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (43) 2015 25 thấy mối quan hệ giữa biến tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng với biến quy mô ngân hàng, trong nghiên cứu của Phong (2012) thì có kết quả quy mô công ty có quan hệ đồng biến với dự phòng rủi ro tín dụng. Do đó, nghiên cứu này cũng đưa ra giả thuyết về quy mô ngân hàng có tác động cùng chiều với tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng. Theo kết quả mô hình hồi quy, dấu của hệ số hồi quy tương tự với giả thuyết ban đầu, với giá trị thống kê p-value là 0.0317 có nghĩa là biến quy mô có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%. Từ đó, ta có thể kết luận nghiên cứu đã tìm thấy quy mô ngân hàng có tác động cùng chiều với tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng. Theo lý thuyết, các ngân hàng có quy mô lớn thường có thể hiệu quả hơn trong việc quản lý rủi ro tín dụng nhờ đa dạng hóa danh mục cho vay của họ. Đồng thời, các ngân hàng có quy mô lớn cũng được các tổ chức đầu tư tài chính lớn tập trung chú ý đầu tư, do đó, các ngân hàng lớn thường có các chiến lược đầu tư ổn định lâu dài. Đây cũng là yếu tố khiến cho những ngân hàng lớn có thể sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao do sự mong đợi vào bảo vệ của chính phủ khi những ngân hàng này gặp nạn làm cho tỷ lệ rủi ro tín dụng tăng lên để đảm bảo cho việc chi trả cho khách hàng thì phải tăng tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng. Đây có thể là một nguyên nhân để giải thích cho kết quả tìm thấy ở trên về tác đồng cùng chiều giữa quy mô ngân hàng và tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng. 5. Kết luận và khuyến nghị 5.1. Kết luận Bài nghiên cứu đã sử dụng mô hình hồi quy tác động cố định để xem xét tác động (LLPi,t-1), thu nhập lãi ròng cận biên (NIM), tỷ lệ nợ xấu (NPL), tỷ lệ nợ xấu năm trước (NPL i,t-1) thu nhập trên tổng tài sản (ROA), quy mô ngân hàng (SIZE), tốc độ tăng trưởng tín dụng (GROWN), tốc độ tăng trưởng tín dụng năm trước (GROWN i,t-1) và tỷ lệ cho vay khách hàng trên tiền gửi khách hàng (LDR) đến tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng. Với số lượng mẫu nghiên cứu gồm 27 NHTM của giai đoạn từ năm 2008 đến 2013. Bài nghiên cứu phân tích thống kê mô tả, phân tích tương quan và phân tích hồi quy nhằm phân tích các yếu tố tác động đến dự phòng rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam. Dựa trên các kết quả đó, bài nghiên cứu đã chỉ ra rằng có sự tác động có ý nghĩa của các yếu tố thu nhập lãi ròng cận biên (NIM), tỷ lệ nợ xấu (NPL), thu nhập trên tổng tài sản (ROA), quy mô ngân hàng (SIZE) đến tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng. Với độ tin cậy thấp nhất là 90%. Từ việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng, nghiên cứu đã cung cấp thêm một thông tin về các nhân tố tác động đến dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng để từ đó giúp cho ngân hàng cải thiện rủi ro tín dụng của ngân hàng mình. 5.2. Khuyến nghị Kết quả nghiên cứu cho thấy dự phòng rủi ro tín dụng có tác động cùng chiều với thu nhập lãi cận biên, tỷ lệ nợ xấu, quy mô ngân hàng và tác động ngược chiều với thu nhập trên tổng tài sản. Đều đó cho thấy, NHNN cần phải có biện pháp xử lý đối với các ngân hàng cung cấp báo cáo tài chính không trung thực với tình hình nợ xấu. Bên cạnh đó, để khắc phục được triệt để rủi ro tín dụng như hiện nay các ngân hàng cần phải nghiêm túc thực hiện việc phân loại nợ xấu theo đúng chuẩn để trích lập dự phòng theo đúng quy mô và tính chất của nợ xấu từ đó giảm thiểu được rủi ro tín dụng có thể xảy ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO Alper, D. & Anbar, A., (2011). Bank Specific and Macroeconomic Determinants of Commercial Bank Profitability: Empirical Evidence from Turkey. Business and Economics Research Journal, vol. 2(2), pp. 139-152. Ashour, M.O., (2011). Banks Loan Loss Provisions Role in Earnings and Capital Management: Evidence from Palestine. A Thesis Submitted in Partial Fulfillment of the Requirements for the Degree of Master in Accounting & Finance, Islamic University – Gaza Deanship of Post Graduate Studies Faculty of Commerce Accounting Department. 26 KINH TẾ Basel Committee on banking Supervision (1999). Principles for the Management of Credit Risk. CH –4002 Basel, Switzerland Bank for International Settlements. Bessis, J., (2002). Risk management in banking. John Wiley and Sons Publisher. Bloem, A. & Freeman, R. (2005). The treatment of Nonperforming Loans. IMF committee on Balance of Payments Statistics Washington. Có thể down load tại: Baltagi, B.H., (2005). Econometric Analysis of Panel Data. 3rd, John Wiley and Sons Publisher. Bland, D., (2003). Insurance Principles and Practice. The Chartered Insurance Institute. Dictionary of Finance and banking. Oxford University Press. 2008. 386. Hornby A. S., 2006. Oxford Advanced learner’s Dictionary. Oxford University Press. 1264. Đinh Thị Thanh Vân (2012). So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tạp chí Ngân hàng, số19. Đinh Công Khải- FETP- Bài giảng Kinh tế lượng ứng dụng (3/2012). Fonseca, A.R. & Gonzalez, F., (2008). Cross-Country Determinants of Bank Income Smoothing By managing Loan-Loss Provisions. Journal of Banking and Finance, no. 32, pp. 217-228. Foos, D., Norden, L. & Weber, M., (2010). Loan growth and riskiness of banks. Journal of Banking & Finance 34, 2929-2940. Gujarati, D.N., (2004). Basic econometrics. 4th edn. McGraw-Hill, New York, USA. Garza-García, J.G., (2010). What influences net interest rate margins? Developed versus developing countries. Banks and Bank Systems, 4(5), 32-41. López-Espinosa, G., Moreno. A, Gracia, J. (2011). Banks Net Interest Margin in the 2000s A Macro-Accounting International perepective. Working paper n 0 11/11. Hasan, I. và Wall, L.D., (2003). Determinants of the loan loss allowance: some cross-country comparisons. Bank of Finland Discussion Papers, Vol.33/2003. Có thể download tại: Hess, K., Grimes, A. & Holmes, M.J., (2008). Credit Losses in Australasian Banking. 21st Australasian Finance and Banking Conference 2008 Paper. Có thể download tại: Karimiyan, N. , H., (2013). Relationship between Loan Loss Provision and Future earning, Return and Cash flow in Commercial Banks of Malaysia. Proceedings of 4th Asia-Pacific Business Research Conference 30 September. - 1 October 2013, Bayview Hotel, Singapore, ISBN: 978-1-922069-31-3. Laurin, A. và cộng sự, (2002). Bank loan classification and provisioning practices in selected developed and emerging countries. Basel Core Principles Liaison Group. Eng, L.L., Nabar, S., (2007). Loan Loss Provisions by Banks in Hong Kong, Malaysia and Singapore. Journal of International Financial Management and Accounting. TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (43) 2015 27 Misman, F.N. & Ahmad, W., (2011). Loan Loss Provisions: Evidence from Malaysian Islamic and Conventional Banks. International Review of Business Research Papers Vol. 7. No. 4. July 2011 Pp. 94-103. Mustafa, A.R., Anasari, R.H., Younis, M.U., (2012). Does the loan loss provision affect the banking profitability in case of Pakistan. Asian Economic and Financial Review, 2012, vol. 2, issue 7, pages 772-783. Nguyễn Cao Thăng, (2013). Phân tích các yếu tố tác động đến nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam. Luận án Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại Học Mở TP.HCM. Nguyễn Thành Nam, (2013). Vấn đề xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt Nam. Tạp chí Khoa học đào tạo ngân hàng, số 135 –tháng 8/2013. Nguyễn Hoàng Thụy Bích Trâm, (2014). Kiểm định rủi ro tín dụng cho các NHTM niêm yết tại Việt Nam. Tạp chí phát triển & hội nhập, Số 14 (24), p. 19-26. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam. Suluck, P. và Supat, M., (2012). Loan Growth and Risk of Asian Financial Institutions after the Asian Financial Crisis. Có thể download tại: Zoubi, T. A. & Al-Khazali, O., (2007). Empirical testing of the loss provisions of banks in the GCC region. Managerial Finance, 33 (7): 50.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphan_tich_cac_yeu_to_tac_dong_den_du_phong_rui_ro_tin_dung_c.pdf