Ăn uống thất thường là một trong các biểu hiện của rối loạn tâm thần. 
Bệnh nhân có thể không chịu ăn uống, hoặc ăn quá nhiều không thể kiểm 
soát được.
Để chăm sóc sức khỏe tâm thần tốt, điều quan trọng là phải dự phòngđược 
bệnh tật, phát hiện và điều trị sớm các rối loạn để phòng các biến chứng, đồng thời 
phục hồi chức năng cho bệnh nhân tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, biểu hiện 
bệnh lý tâm thần tương đối kín đáo, đôi khi khó phân biệt với những hoạt động 
bình thường. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Phát hiện sớm các rối loạn tâm thần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát hiện sớm các rối loạn tâm thần 
Ăn uống thất thường là một trong các biểu hiện của rối loạn tâm thần. 
Bệnh nhân có thể không chịu ăn uống, hoặc ăn quá nhiều không thể kiểm 
soát được. 
Để chăm sóc sức khỏe tâm thần tốt, điều quan trọng là phải dự phòng được 
bệnh tật, phát hiện và điều trị sớm các rối loạn để phòng các biến chứng, đồng thời 
phục hồi chức năng cho bệnh nhân tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, biểu hiện 
bệnh lý tâm thần tương đối kín đáo, đôi khi khó phân biệt với những hoạt động 
bình thường. 
Ngoài rối loạn ăn uống, rối loạn tâm thần ở giai đoạn sớm còn có các biểu 
hiện: 
Rối loạn giấc ngủ: 
Thay đổi so với những biểu hiện bình thường của chính họ trước đây, như 
khó khăn khi đi vào giấc ngủ, trằn trọc, thức dậy sớm hơn thường lệ. Bệnh nhân có 
thể mất ngủ kéo dài hàng tuần, hàng tháng, một số không thể duy trì giấc ngủ và 
thường thức trắng cả đêm. Một số bệnh nhân rối loạn chu kỳ thức ngủ: ngày ngủ, 
đêm thức (không phải do nghề nghiệp, thói quen hoặc lý do công việc đặc biệt 
khác). 
Thay đổi tính cách: 
 Bệnh nhân thay đổi tính cách so với trước kia như dễ cáu giận hơn, giận dữ 
vô cớ, thậm chí kích động đập phá, đánh người vô cớ. Đặc biệt, có thể có sự thay 
đổi tình cảm, thái độ với người thân: xa lánh, thù ghét bố mẹ, anh em... cho rằng 
anh em, bố mẹ không tốt, hại mình. 
 Thay đổi trong nề nếp sinh hoạt hằng ngày: 
Người bệnh trở nên lười biếng hơn, ít hoặc ngại giao tiếp, không quan tâm 
đến người thân, bỏ bê công việc, mất hoặc không duy trì các thói quen, sở thích 
trước kia, không chăm sóc vệ sinh cá nhân. 
Thay đổi trong cách nghĩ: 
Bệnh nhân trở nên đa nghi hơn, hay nghi ngờ cả với người thân, thường có 
hành vi theo dõi, kiểm tra... hoặc có những ý nghĩ không đúng, không phù hợp với 
hoàn cảnh thực tế. Người bệnh còn có những ý nghĩ kỳ lạ, không thể giải thích 
được như: cho rằng có người đang theo dõi, hại mình và người thân của mình, 
hoặc có người biết mọi ý nghĩ của mình, chi phối mọi hành vi, việc làm của 
mình... Một số bệnh nhân lại cho rằng bản thân có khuyết điểm, tội lỗi không thể 
tha thứ, có thể nảy sinh ý tưởng và hành vi tự sát. 
Thay đổi trong cách nói: 
Một số trở nên trầm, ít nói hơn hoặc nói một mình như đang đối thoại với 
người khác. Có người lơ đễnh, không tham gia được câu chuyện với người khác, 
nói những câu vô nghĩa, không có nội dung, các chữ, câu không liên quan với 
nhau, hoặc nói không ăn khớp với hoàn cảnh. 
Có những hành vi kỳ lạ, không phù hợp với hoàn cảnh hoặc không thể giải 
thích được: Đứng sững nhìn mặt trời, lúc nào cũng giữ lâu một tư thế khó chịu, đi 
lang thang không có mục đích... 
Khi phát hiện các rối loạn tâm thần, trong trường hợp bệnh nhân còn nhận 
thức được bệnh của mình, nên xem xét kỹ các rối loạn này có từ bao giờ, có những 
nguyên nhân trong cuộc sống tác động đến hay không? Hãy bày tỏ với người thân 
về các rối loạn của mình để họ có thể trợ giúp hoặc đưa ra những lời khuyên hợp 
lý. Gia đình nên tìm hiểu kỹ những thay đổi ở bệnh nhân để động viên, chia sẻ và 
thông cảm, đưa đến ngay các trung tâm tư vấn tâm lý hoặc các phòng khám 
chuyên khoa tâm thần. 
Hai giai đoạn điều trị chứng đau nửa đầu 
“Với bệnh đau nửa đầu (nhức đầu migraine), ngoài việc điều trị triệu 
chứng khi xuất hiện cơn đau, điều trị dự phòng đóng vai trò quan trọng để 
giảm tần số cơn đau”, PGS.TS Lê Văn Thính, Trưởng khoa Thần kinh - BV 
Bạch Mai cho biết. 
Đau đầu có rất nhiều nguyên nhân gây nên, khi xuất hiện những cơn đau 
đầu, người bệnh cần đến bệnh viện để được bác sĩ chuyên khoa xác định căn 
nguyên gây nên những cơn đau này. 
Nếu bị đau nửa đầu migraine, người bệnh thường bị những cơn đau đầu nửa 
đầu kéo dài với các triệu chứng lâm sàng rất đa dạng: đau giật giật theo nhịp mạch 
đập, đau vừa phải hoặc đau dữ dội, đặc biệt ở vùng hốc mắt…với tần số, cường 
độ, khoảng thời gian đau khác nhau ở mỗi người. 
Khi chẩn đoán chắc chắn bị đau nửa đầu magraine, việc điều trị sẽ chia làm 
hai giai đoạn: điều trị cấp và điều trị dự phòng. 
Điều trị cấp (điều trị cơn đau): 
Là giai đoạn người bệnh thấy đau đầu dữ dội cần điều trị ổn định. Điều trị 
cấp nhằm giảm các cơn đau dữ dội một cách hiệu quả, nhanh chóng và khôi phục 
lại khả năng của người bệnh về các chức năng bị tổn thương sau cơn đau nửa đầu. 
Ở từng người bệnh, bác sĩ có những đơn thuốc khác nhau dựa trên cơ sở 
khám lâm sàng và cận lâm sàng. Ngoài những thuốc giảm đau thông thường, bác 
sĩ có thể cho người bệnh dùng các loại thuốc đặc trị ở mức độ vừa và nặng; hoặc 
dùng thuốc này để điều trị cho những bệnh nhân ở mức độ nhẹ, vừa nhưng dùng 
các loại thuốc giảm đau khác không mang lại hiệu quả. 
Giai đoạn điều trị cấp thường kéo dài trong khoảng 2 tuần. Trong giai đoạn 
này, bệnh nhân cần tự theo dõi hiệu quả của thuốc. Bởi có nhiều trường hợp, sau 
khi dùng thuốc, người bệnh lại có hiện tượng đau đầu phản hồi (dùng thuốc cơn 
đau lại tăng lhieej. Khi có hiện tượng này, cần báo ngay cho bác sĩ điều trị để có 
cách xử lý hiệu quả nhất. 
Tuy nhiên, điều trị cấp chỉ có tác dụng giảm cơn đau, vì thế, người bị chứng 
đau nửa đầu cần được điều trị dự phòng để tránh tái phát lại cơn đau. 
Điều trị dự phòng 
Theo PGS.TS Lê Văn Thính, không phải bất cứ bệnh nhân nào cũng cần 
điều trị dự phòng khi bị migraine. Căn cứ vào tần số cơn đau mà bác sĩ sẽ chỉ định 
những bệnh nhân nào cần được điều trị dự phòng. 
Chỉ điều trị dự phòng cho những bệnh nhân sau: xuất hiện cơn đau đầu 2 
lần/tuần; những bệnh nhân mà trong giai đoạn điều trị cấp không mang lại hiệu 
quả; những bệnh nhân có các cơn đau migraine không điển hình, có triệu chứng 
báo trước kéo dài, nhồi máu não có migraine… 
Điều trị dự phòng nhằm giảm tần số, cường độ cơn đau; cải thiện các chức 
năng bị suy giảm sau cơn đau và giúp củng cố cho phương pháp điều trị trong giai 
đoạn cấp. 
Giai đoạn điều trị dự phòng kéo dài từ 2 - 3 tháng. Nếu kiểm soát được các 
cơn đau trong vòng 6 tháng, người bệnh không cần điều trị tiếp. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 phat_hien_som_cac_roi_loan_tam_than_2807.pdf phat_hien_som_cac_roi_loan_tam_than_2807.pdf