Phát triển kinh tế tư nhân - Lý luận, thực trạng,giải pháp trong giai đoạn hiện nay

Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ nền kinh tế. Nhiều quốc gia mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của hình thức kinh tế này và tích cực phát triển nó như một công cụ hiệu quả để phát triển kinh tế. Tuy nhiên đã có thời không ít người, đặc biệt là các nhà lý luận theo mô hình Xô Viết lên án kinh tế tư nhân và chủ trương xóa bỏ nó. Họ coi kinh tế tư nhân là trở ngại chủ yếu cho việc xây dựng xã hội mới, nhưng thực tế đã minh chứng ngược lại, trong khi Chủ nghĩa Xã hội kiểu Xô Viết sụp đổ thì kinh tế tư nhân lại phát triển không ngừng và càng ngày càng thể hiện ưu thế và sức mạnh to lớn của nó. Hiện tượng lịch sử trên cho thấy kinh tế tư nhân không chỉ liên quan đến sự thành bại của một quốc gia, mà nó còn có tác động rất quan trọng tới tiến trình phát triển của toàn nhân loại.”

(“Suy tưởng”_Nguyễn Trần Bật Chủ tịch/ Tổng giám đốc Investconsult Group)

Nhận thức về thành phần kinh tế tư nhân trong giai đoạn đã được thay đổi và cần được tiếp tục đổi mới và nhìn nhận khách quan hơn về thành phần kinh tế năng động này trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu về kinh tế tư nhân sẽ không chỉ nhằm giải thích hiện tượng lịch sử quan trọng như sự sụp đổ của Chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, mà quan trọng hơn nhận thức được con đường đi tới tương lai.Với ý nghĩa thiết thực như vậy,em đã chọn đề tài : “Phát triển kinh tế tư nhân-Lý luận,thực trạng,giải pháp trong giai đoạn hiện nay.”để làm sáng tỏ thêm những nhận định trên.

 

doc41 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Phát triển kinh tế tư nhân - Lý luận, thực trạng,giải pháp trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC: LỜI MỞ ĐẦU “Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ nền kinh tế. Nhiều quốc gia mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của hình thức kinh tế này và tích cực phát triển nó như một công cụ hiệu quả để phát triển kinh tế. Tuy nhiên đã có thời không ít người, đặc biệt là các nhà lý luận theo mô hình Xô Viết lên án kinh tế tư nhân và chủ trương xóa bỏ nó. Họ coi kinh tế tư nhân là trở ngại chủ yếu cho việc xây dựng xã hội mới, nhưng thực tế đã minh chứng ngược lại, trong khi Chủ nghĩa Xã hội kiểu Xô Viết sụp đổ thì kinh tế tư nhân lại phát triển không ngừng và càng ngày càng thể hiện ưu thế và sức mạnh to lớn của nó. Hiện tượng lịch sử trên cho thấy kinh tế tư nhân không chỉ liên quan đến sự thành bại của một quốc gia, mà nó còn có tác động rất quan trọng tới tiến trình phát triển của toàn nhân loại.” (“Suy tưởng”_Nguyễn Trần Bật Chủ tịch/ Tổng giám đốc Investconsult Group) Nhận thức về thành phần kinh tế tư nhân trong giai đoạn đã được thay đổi và cần được tiếp tục đổi mới và nhìn nhận khách quan hơn về thành phần kinh tế năng động này trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu về kinh tế tư nhân sẽ không chỉ nhằm giải thích hiện tượng lịch sử quan trọng như sự sụp đổ của Chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, mà quan trọng hơn nhận thức được con đường đi tới tương lai.Với ý nghĩa thiết thực như vậy,em đã chọn đề tài : “Phát triển kinh tế tư nhân-Lý luận,thực trạng,giải pháp trong giai đoạn hiện nay.”để làm sáng tỏ thêm những nhận định trên. Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn của cô giáo PGS – TS Đào Phương Liên. Phần I: Lý luận về phát triển thành phần kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay I-Tính tất yếu khách quan tồn tại kinh tế tư nhân: Qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật chung cho mọi phương thức sản xuất.Ở nước ta,với một nền sản xuất chưa thực sự phát triển cao,lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau ,tương ứng với mỗi trình độ của lực luợng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó,cơ cấu của nền kinh tế,xét trên phương diện kinh tế-xã hội,phải là nền kinh tế nhiều thành phần.Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể ở Việt Nam,Đảng Cộng sản Việt Nam xác định :nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam có 5 thành phần:Kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể,kinh tế tư nhân,kinh tế tư bản nhà nước,kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,thì trong tình hình hiện nay,thành phần kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định được vai trò của mình,là một cấu thành quan trọng trong nền kinh tế,đóng vai trò tích cực trong quá trình tăng trưởng kinh tế,tất nhiên cần có sự quản lý chặt chẽ và định hướng phù hợp đối với thành phần kinh tế nhạy cảm này. II-Nhận định,đánh giá về kinh tế tư nhân: Các bộ phận của kinh tế tư nhân bao gồm:kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn thêm lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn có của bản thân và gia đình. Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung Ương khoá IX có khẳng định: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao nội lực đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế có sự tương thích rất cao với kinh tế thị trường, đặc biệt là khi tính chất mở của thị trường ngày càng tăng, sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh ó sự tương thích rất cao với kinh tế thị trường, đặc biệt là khi tính chất mở của thị trường ngày càng tăng, sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh.Những mặt tích cực mà nó đem lại cho nền kinh tế có thể kể ra dưới đây: Thứ nhất,hoạt động có hiệu quả,đóng góp phần lớn vào ngân sách nhà nước,sử dụng tốt các tiềm năng về vốn,biết tận dụng các nguồn nguyên liệu vật tư có sẵn trong nước, kể cả các phế liệu trong sản xuất cũng như máy móc, thiết bị cũ. Thứ hai, tạo công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động, đảm bảo đời sống và do đó góp phần đáng kể cho việc ổn định xã hội. Vai trò này càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong điều kiện nước ta khi mà khả năng thu hút lao động của kinh tế nhà nước còn rất hạn chế. Thứ ba, nhanh nhạy với thị trường,sản xuất ra nhiều hàng hoá, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, bảo đảm tính ổn định và bền vững trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Thứ tư, giữ vai trò hỗ trợ, bổ xung cho kinh tế nhà nước, tạo thành mối liên kết hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thứ năm, góp phần duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, kinh nghiện quản lý đã được tích luỹ qua nhiều thế hệ của từng gia đình và dòng họ, phát huy truyền thống gắn liền với hiện đại. Thứ sáu, tạo sự cân đối về sự phát triển giữa các vùng, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Thứ bẩy, tuyển chọn cán bộ quản lý, phát triển kỹ năng lao động. Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước. Đối với những nước đang trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, khu vực kinh tế tư nhân thực sự là một động lực đối với tăng trưởng kinh tế. Về mặt xã hội,nó cũng là một phương tiện để phát triển con người .Thực tế cho thấy kinh tế tư nhân có vai trò đắc lực tạo ra sự phát triển của xã hội, tạo cho mỗi cá nhân có cơ hội có việc làm để khẳng định mình, để mưu cầu cuộc sống và hạnh phúc, tức là góp phần tạo ra con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp hơn.Chính trong môi trường kinh tế tư nhân luôn mang có tính cạnh tranh cao này buộc mỗi người phải tự hoàn thiện mình mới có thể đứng vững,qua đó góp phần phát triển toàn xã hội. Nhận thức đúng đắn về thành phần kinh tế tư nhân,Đảng ta đã coi đây là một động lực của nền kinh tế.Và định hướng phát triển cho thành phần kinh tế tư nhân là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong tình hình hiện nay,mang ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.Để có thể phát huy hết vai trò của kinh tế tư nhân,tất nhiên phải có cơ chế chính sách thông thoáng,phù hợp cùng sự quản lý chặt chẽ,vì đây cũng là thành phần kinh tế có tính nhạy cảm và sự tự phát cao. Phần II: Thực trạng của sự phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay 1.Quá trình phát triển kinh tế tư nhân trong những năm gần đây: Trước đổi mới,kinh tế tư nhân bị coi là “kẻ thù” của chủ nghĩa xã hội,là đối tượng cải tạo, không được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển.Khi đó, khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta mới chỉ có kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế gia đình. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển. Đặc biệt từ khi Nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và gần đây là Luật Doanh nghiệp,thì kinh tế tư nhân dần hồi sinh và phát triển,ngày càng mạnh mẽ,có thể thấy được điều đó qua số liệu về các mặt sau đây. 1.1Sự phát triển về số lượng các hình thức kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân: Năm 1991 sau một năm ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân mới có 414 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần thì đến năm 1992 là 5198 doanh nghiệp, tương tự các năm 1993, 1994, 1995, 1996, 1997 là : 6.808 doanh nghiệp, 10.811 doanh nghiệp, 15.276 doanh nghiệp, 18.840 doanh nghiệp. 25.002 doanh nghiệp và năm 1998 tăng lên đến 26.021( tăng 4%) gấp 62 lần so với doanh nghiệp năm 1991. Tính bình quân giai đoạn 1991 - 1998 mỗi năm tăng thêm 3252 doanh nghiệp khoảng 32% trong đó năm 1992 tốc độ tăng về số lượng doanh nghiệp đặc biệt cao. Năm1999 con số này tăng lên 28.700 doanh nghiệp, năm 2000 tăng lên 41.700 doanh nghiệp.Và đến năm 2005 con số này là khoản 128.000(6/2005,website: Đối với mỗi loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần mức tăng về số lượng cũng khác nhau. Cụ thể: - Loại hình doanh nghiệp tư nhân: Theo báo cáo của Hội nghị toàn ngành tài chính năm 2003, từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực đến nay đã có hơn 71.500 doanh nghiệp được thành lập (gấp 1,6 lần so với giai đoạn 1991-1999), đưa tổng số doanh nghiệp tư nhân lên tới gần 110.000 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký khoảng 135.000 tỷ đồng. Tỷ trọng đầu tư của khối doanh nghiệp này tăng so với tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2000 là 29%, năm 2001 là 23%, năm 2002 là 25,3% và ước năm 2003 là 27%, nộp ngân sách Nhà nước năm 2003 ước đạt 8000 tỷ đồng.(Website: - Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn: năm 1991 có 122 công ty, năm 1998 tăng lên 7.100 công ty, tăng lên 58 lần trong đó năm 1992 tốc độ tăng về số lượng so với năm 1991 đặc biệt cao: 1444/122 = 1.183%, nhưng năm 1997 tốc độ tăng chậm lại, nhất là năm 1998 chỉ còn 3%. - Loại hình công ty cổ phần: năm 1991 có 22 công ty, đến năm 1998 tăng lên 171 công ty - tăng 7,7 lần , giai đoạn tăng nhanh nhất là vào năm 1992: 526%, nhưng sau đó vào năm 1993 và năm 1995, 1996 châm lại, năm 1997 tăng lên nhưng năm 1998 lại giăm còn 12%. Nhìn chung loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đang tăng nhanh về số lượng trong giai đoạn 1992 - 1994, có nguyên nhân sâu xa là sự khuyến khích của các chính sách vĩ mô - đặc biệt là Luật doanh nghiệp và Luật công ty; còn sự suy giảm về số lượng doanh nghiệp năm 1997 - 1998 là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, sự phát triển hậm lại của nền kinh tế nước ta nói chung và những yếu kém của bản thân các doanh nghiệp, cùng với hạn chế của những chính sách, giải pháp vĩ mô chưa kịp với tình hình v.v… 1.2. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo ngành nghề sản xuất kinh doanh. Các số liệu thống kê cũng như kết quả điều tra cho thấy: đa số các cơ sở kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân đều tập chung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kế đó mới đến công nghiệp và sau cùng là sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 1995, trong tổng số 1.882.792 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ thì có đến 940.944 cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, khách sạn, nhà hàng; 707.053 cơ sở hoạt động trong ngành nông nghiệp, xây dựng và chỉ có 234.751 cơ sở trong các lĩnh vực còn lại; nghĩa là lĩnh vực thương mại, dịch vụ vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất(49%) sau đó đến công nghiệp(38%) và cuối cùng là các lĩnh vực khác(13%). Những năm gần đây, xu thế trên vẫn được duy trì và có chiều hướng tập chung vào các lĩnh vực dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Cụ thể là: trong tổng số 2,2 triệu hộ cá thể, tiểu chủ được khảo sát thời kỳ 1997-1998 thì: lĩnh vực dịch vụ( bán lẻ, vận tải, dịch vụ cá nhân, khách sạn, nhà hàng, bán buôn và đại lý) có trên 1,2 triệu cơ sở, chiếm tới 55% tổng số; lĩnh vực công nghiệp và xây dựng( chế biến thức ăn, dệt, may, sản phẩm gỗ, xây dựng, khai thác) với 527.000 cơ sở chiếm 26,3% và cuối cùng là lĩnh vực nông nghiệp (ngư nghiệp, chăn nuôi lâm nghiệp và các doanh nghiệp khác) với khoảng 369 ngàn cơ sở, chiếm 18,8%. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thì tình hình cũng tương tự trên. Cụ thể là: Giai đoạn 1991-1996, trong tổng số 17.442 cơ sở: lĩnh vực thương mại,dịch vụ với khoảng 6.802 cơ sở, chiếm tỷ trọng 39%; công nghiệp chế biến với khoảng 6.105 cơ sở, chiếm tỷ trọng 35%; còn lại 4.534 cơ sở thuộc lĩnh vực khác và chiếm khoảng 26%. Giai đoạn 1997-1998, trong tổng số 26.021 doanh nghiệp đã đăng ký năm 1998, có tới quá nửa doanh nghiệp thương mại dịch vụ; chỉ có 5.620 doanh nghiệp sản xuất trong đó 55% là chế biến thực phẩm và đồ uống, còn lại 7648 doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác( xây dựng, vận tải v.v…). Như vậy doanh nghiệp thương mại vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp tư nhân. Thương nghiệp tư nhân( gồm kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ) và đang làm chủ nhiều ngành hàng nhất là công nghệ phẩm, lương thực thực phẩm, chủ công mỹ nghệ, gốm sứ, bán lẻ hàng hoá, dịch vụ cá nhân v.v.. trở thành đối thủ cạnh tranh và thay thế nhiều lĩnh vực trước đây vốn do thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã đảm nhận. Nhờ phát triển mạnh mẽ của thương nghiệp tư nhân đã làm thay đổi cơ cấu tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ toàn xã hội: năm 199, tư nhân chiếm tỷ trọng 66,9% tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội, thì đến năm 1998 đã tăng lên 78%; ngược lại quốc doanh tập thể từ 33,1% năm 1990, đến năm 1998 chỉ còn 22%; đồng thời tác động mạnh mẽ đến việc hình thành hệ thống marketing mơi ở nước ta trong đó thương nghiệp quốc doanh chỉ còn làm chủ trong những ngành hàng quan trọng, tư thương làm chủ bán lẻ hàng tiêu dùng xã hội. Trong lĩnh vực sản xuất, khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng còn thấp, tiềm lực còn nhỏ, dễ bị tác động, thua thiệt trong cơ chế thị trường. Năm 1998, khối sản xuất khu vực nhà nươc( quốc doanh và tập thể) còn chiếm 54,1% tổng giá trị sản lượng( mặc dù so với năm 1995 đã giảm đi 7%), khối đầu tư nước ngoài tăng lên 18%( từ 15% năm 1995), khối kinh tế tư nhân giảm xuống còn 27,8%( 28% năm 1995)- trong đó kinh tế tư nhân chính thức giảm xuống 9,6%( từ 10,5% năm 1995). Còn nếu xét về tốc độ tăng trưởng tổng giá trị thì: khu vực quốc doanh giảm từ 11,7% vào năm 1995 giảm xuống 5,5% vào năm 1998; khu vực kinh tế tư nhân giảm từ 16,8% năm 1995 xuống còn 9% vào năm 1998, riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ 14,9% năm 1995 tăng lên 28,1% vào năm 1998. 1.3. Sự phát triển của kinh tế tư nhân theo vùng lãnh thổ: Con số thống kê năm 1995 cho thấy: 55% số doanh nghiệp tư nhân tập trung ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, trong khi đó vùng đồng bằng Sông Hồng con số đó là 18,1%, vùng Duyên hải miền Trung 10,1%. Trong các tỉnh phía Nam thì riêng thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai đã chiếm 63% các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Năm 1996, trong tổng số 1.439.683 cơ sở kinh doanh thuộc doanh nghiệp tư nhân( bao gồm 1.412.166 cơ sở của cá nhân và nhóm kinh doanh, 17.535 doanh nghiệp tư nhân và 6883 công ty trách nhiêm hữu hạn) thì : 24% tập trung ở đồng Bằng sông Cửu Long, 21% ở vùng đồng Bằng sông Hồng, 19% ở vùng Đông Nam Bộ, 13% ở Khu Bốn cũ, 10% ở vùng duyên hải miền Trung, 9% ở vùng núi và trung du Bắc Bộ và 4% vùng Tây Nguyên. Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân, mức độ phát triển mạnh và tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long lên tới 40%; đồng bằng sông Hồng là 33%; và Đông Nam Bộ là 25%. Các công ty cổ phần lại phát triển ở vùng Đông Nam Bộ lên đến 54%, Đồng bằng sông Hồng 23%. Sự phát triển và phân bố không đồng đều của kinh tế tư nhân vẫn diễn ra không đồng đều tên cả nước trong những năm gần đây. Năm 1997, trong tổng số 25.002 cơ sở kinh tế tư nhân( chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân) thì 18.728 doanh nghiệp tập trung ở miền Nam, chiếm tới 75%, trong khi đó ở miền Bắc chỉ có 4.178 doanh nghiệp, chiếm 17%, và miền Trung có 2.087 doanh nghiệp, chiếm 8,3%. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có số lượng 6.304 doanh nghiệp, chiếm 25%, bằng toàn bộ số doanh nghiệp của miền Bắc và miền Trung cộng lại. Năm 1998, các con số tương ứng là: ở miền Nam 73%, lớn gần gấp 3 lần miền Bắc và miền Trung cộng lại( 27%); thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa bàn có số lượng lớn nhất(25%), Hà Nội và miền Trung có số lượng tương đương nhau( khoảng 8%). Tính đến thời điểm hiện nay thì mặc dù các cơ sở kinh tế nhân đã phát triển ở tất cả mọi nơi trên đất nước nhưng sự chênh lệch giữa các vùng miền vẫn rõ rệt. Các cơ sở kinh tế tư nhân tập trung nhiều nhất là ở miền Nam đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương… 2. Những đóng góp và những kết quả đạt được của khu vực kinh tế tư nhân cho nền kinh tế 2.1. Khơi dậy và phát huy tiềm năng của bộ phận lớn dân cư tham gia vào công việc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo việc làm. 2.1.1. Huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển. Kinh tế cá, thể tiểu chủ tuy quy môm nhỏ nhưng với số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh lớn nên đã động viên được nhiều nguồn vốn vào phát triển kinh doanh từ 14.000 tỷ đồng năm 1992 tăng lên 26.500 tỷ đồng vào năm 1996. chiếm 8,5% tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh toàn xã hội. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã huy động được vốn kinh doanh là 20.665 tỷ đồng ( tính đến hết năm 1996), bình quân mỗi năm trong giai doạn 1991-1996 tăng thêm 3.904 tỷ đồng, chiếm khoảng 5% số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội và 6,9% vốn kinh doanh của các ngành. Tính đến thời điểm năm 1996, khu vực kinh tế tư nhân đã huy động được tổng lượng vốn đến 47.155 tỷ đồng, chiếm tới 15% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Mặc dù trong những năm vừa qua với chính sách mở cửa nhà nước kêu gọi thêm nguồn đầu tư FDI ngày một tăng, nhưng khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn đóng góp lượng vốn đầu tư rất đáng kể cho nền kinh tế. Năm 1999 vốn đầu tư phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là 131.171 tỷ đồng và đến năm 2000 con số này tăng lên 147,633 tỷ đồng. 2.1.2. Tạo việc làm, toàn dụng xã hội. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tham gia tích cực và có hiệu quả đối vơi vấn đề giả quyết việc làm. Năm 2000, lao động của doanh nghiệp tư nhân là 21.017.326 người chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước. Trong đó, lao đông trong các hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn lao động trong doanh nghiệp. Trong các ngành phi nông nghiệp, số lượng lao động năm 2000 là 4.634.844 lao động, tăng 20,12% so với năm 1996, bình quân mỗi năm tăng thêm được 194.760 lao động, tăng 4,75%/năm. Trong 4 năm từ năm 1997 đến năm 2000, chỉ tính riêng các ngành phi nông nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đã thu hút thêm được 997.019 lao động, gấp 6,6 lần so với khu vực nhà nước. So với năm trước, số lao động trong các doanh nghiệp phi nông nghiệp tăng lên như sau: 1997 là 11,7%; 1998 là 10,2%; 1999 là 23,8%; 2000 là 56%. Tỷ trọng lao động của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực phi nông nghiệp năm 2000 chiếm 22,1% lao động trong các khu vực kinh tế tư nhân, 39,8% lao động phi nông nghiệp cả nước. Trong đó, lao động ở hộ kinh doanh cá thể chiếm 81,9%; ở doanh nghiệp chiếm 18,1% lao động phi nông nghiệp. Năm 2000, lao động của kinh tế tư nhân trong nông nghiệp có 16.373.428 người, chiếm 62,9% tổng số lao động nông nghiệp toàn quốc. Số lao động của các hộ ngoài hợp tác xã chiếm 99,67% tổng số lao động của khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. Trong đó số lao động ở khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, các trang trại chỉ thu hút được 363.084 lao động, chiếm 22,2%, các doanh nghiệp nông nghiệp chỉ thu hút được 53.097 lao động chiếm 0,33%. 2.1.3. Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh mục tiêu cơ bản là huy động tiềm năng về vốn và giải quyết việc làm cho toàn xã hội, khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư nhân còn đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm xã hội. Năm 2000, GDP của khu vực kinh tế tư nhân đạt 178.715 tỷ đồng, chiếm 42,3% GDP toàn quốc. Trong đó: hộ kinh doanh đóng góp được 154,562 tỷ đồng, chiếm 82,34%; donah nghiệp đóng góp được 33,153 tỷ đồng, chiếm 17,66% GDP của kinh tế tư nhân. Trong các ngành phi nông nghiệp: năm 2000 đóng góp vào GDP được 119.337 tỷ đồng, chiếm 63,6% của khu vực tư nhân. Trong đó, hộ kinh doanh cá thể có tỷ trọng lớn hơn nhiều so với doanh nghiệp; lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ có tỷ lệ lớn hơn nhiều so với sản xuất công nghiệp. GDP của các ngành phi nông nghiệp tăng trưởng liên tục trong những năm gần đây, nói chung xấp xỉ tốc độ tăng GDP toàn quốc. Năm 2000, GDP khu vực kinh tế phi nông nghiệp của kinh tế tư nhân đạt 86.929 tỷ đồng, tăng 28,94% so với năm 1996, bình quân tăng hơn 7%/năm. Trong các ngành nông nghiệp: theo số liệu thống kê năm 2000, GDP của kinh tế tư nhân ngành nông nghiệp đạt 68.378 tỷ đồng, chiếm 15,4% GDP toàn quốc, 63,2% GDP của nông nghiệp, 36,4% GDP của kinh tế tư nhân. Trong đó, hộ cá thể chiếm 98% GDP kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. 2.2. Thúc đẩy hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh … đều do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhận. Hiện nay, trừ một số lĩnh vực, ngành nghề mà nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân không được kinh doanh, còn lại hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh káhc khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia. Trong đó, nhiều lĩnh vực, nghành nghề, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất lương thực, thực phẩm. Nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh cá, lâm nghiệp, hàng hoá bán lẻ, chế biến, sành sứ, giày dép, dệt may, … Lĩnh vực sản xuất lương thực, đặc biệt là xuất khẩu gạo và các sản phẩm nông nghiệp,thủy hải sản, lĩnh vực dệt may, giày dép xuất khẩu; thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…đã mang về hàng tỷ đô la ngoại tệ cho nền kinh tế tư nhân. Thực tế nêu trên đang đặt ra vấn đề cần xem xét vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nứoc trong nhữn ngành nghề, lĩnh vực nào là thích hợp khi mà khu vựuc kinh tế tư nhân đã tham gia và chiếm tỷ trọng lớn trong không ít ngành nghề. Chính sự phát triển phong phú, đa dạng các cơ sở sản xuất, các ngành nghề, các loại sản phẩm dịch vụ, các hình thức kinh doanh … của khu vực kinh tế tư nhân đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp nhà nước, buộc khu vực kinh tế nhà nứoc phảI cảI tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh dịch vụ… để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đẫ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vựu kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên sức ép lớng buộc cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng hình thành và xác lập vai trò, vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác với bên ngoài. 2.3. Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ nhà doanh nghiệp Việt Nam, làm đầu tàu thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở của hợp tác với bên ngoài. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trước đây đã xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và cả những doanh nghiệp tư nhân, chỉ còn lại các nhà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Đội ngũ các nhà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh đựơc đào tạo trong cơ chế cũ - mặc dù đã đựoc đào tạo, đổi mới, trưởng thành trong cơ chế thị trường những năm gần đây và đã đạt được những thành công đáng kể trong sản xuất kinh doanh, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều yếu kém bất cập trước yêu cầu nhiệm vụ và đòi hỏi của nền kinh tế thị trường nhất là trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thời mở cửa nền kinh tế. Nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các nghành nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng ngày một lớn: khoảng trên 40.000 chủ doanh nghiệp và trên 120.000 chủ trang trại (trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp). Nếu so sánh với gần 6.000 giám đốc doanh nghiệp nhà nước được nhà nước đào tạo trong nhiêuù thập kỷ trước dây thì số lượng các nhà doanh nghịe tru nhân và các chru trang trại hình thành trong thời kỳ đổ mới lớn hơn nhiều lần. Đây thật sự la một thành quả cáo ý nghĩa lớn trong việc xây dựng đội ngũ các doanh nghiệp và phát huy nguồn lực con người cho đất nước thời mở của của khu vực kinh tế tư nhân. mặc dù được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào tạo luyện trong cơ chế thị trường, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân đã tỏ rõ bản lĩnh, tài năng, thích ứng khá kịp thời với sự chuyển đổi của nền kinh tế. Họ đã vươn lên, tham gia vào hầu hết các lĩnh vực, nghành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm - trong đó bao gồm cả những ngành kỹ thuật cao ( điện tử, phần mềm…) và đã làm chủ nhiều lĩnh vực ( nuôi trông,đánh bắt tuỷ hảI sản, công nghiệp chế biến…), nhiều ngành hàng (thương mại, dịch vụ, bán lẻ hàng hóa, ăn uống, gia công giaùy dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPht tri7875n kinh t7871 t432 nhnL lu7853nth7921c tr7841ng.doc