Đặt vấn đề: Chúng tôi nghiên cứu khả năng ứng dụng phẫu thuật nội soi trong mở rộng bàng quang bằng
ruột kết hợp với cắm lại niệu quản vào bàng quang tại Bệnh viện Bình Dân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 68 bệnh nhân bàng quang thần kinh hoặc bàng quang kém giãn
nở được phẫu thuật mở rộng bàng quang bằng ruột nội soi. Trong đó có 33 trường hợp kết hợp cắm lại niệu quản
vào bàng quang và 9 trường hợp tạo van chuyển lưu nước tiểu có kiểm soát.
Kết quả: Từ tháng 06/2008 đến 04/ 2013, có 68 trường hợp phẫu thuật mở rộng bàng quang bằng ruột được
thực hiện ở Bệnh viện Bình Dân, gồm 37 nam và 31 nữ. Tuổi trung bình là 35,89.Thời gian mổ trung bình là
317,78 phút.Một trường hợp chuyển mổ hở để kiểm tra và sửa chữa cuống mạc treo bị xoắn 1800. Thời gian nằm
viện trung bình 9,96 ngày. Thời gian theo dõi từ 3 – 36 tháng. Ba trường hợp tắc ruột hoặc bán tắc ruột trong
khoảng thời gian 1 tháng sau mổ, trong đó một bệnh nhân phải mổ cấp cứu. Một trường hợp khác vỡ bàng quang
sau mổ 10 tháng phải mổ khâu bàng quang.
              
            Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 324
PHẪU THUẬT NỘI SOI MỞ RỘNG BÀNG QUANG 
BẰNG RUỘT KẾT HỢP VỚI CẮM LẠI NIỆU QUẢN VÀO BÀNG QUANG 
VÀ TẠO VAN CHUYỂN LƯU 
Nguyễn Văn Ân*, Phạm Hữu Đoàn*, Võ Trọng Thanh Phong* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Chúng tôi nghiên cứu khả năng ứng dụng phẫu thuật nội soi trong mở rộng bàng quang bằng 
ruột kết hợp với cắm lại niệu quản vào bàng quang tại Bệnh viện Bình Dân. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 68 bệnh nhân bàng quang thần kinh hoặc bàng quang kém giãn 
nở được phẫu thuật mở rộng bàng quang bằng ruột nội soi. Trong đó có 33 trường hợp kết hợp cắm lại niệu quản 
vào bàng quang và 9 trường hợp tạo van chuyển lưu nước tiểu có kiểm soát. 
Kết quả: Từ tháng 06/2008 đến 04/ 2013, có 68 trường hợp phẫu thuật mở rộng bàng quang bằng ruột được 
thực hiện ở Bệnh viện Bình Dân, gồm 37 nam và 31 nữ. Tuổi trung bình là 35,89.Thời gian mổ trung bình là 
317,78 phút.Một trường hợp chuyển mổ hở để kiểm tra và sửa chữa cuống mạc treo bị xoắn 1800. Thời gian nằm 
viện trung bình 9,96 ngày. Thời gian theo dõi từ 3 – 36 tháng. Ba trường hợp tắc ruột hoặc bán tắc ruột trong 
khoảng thời gian 1 tháng sau mổ, trong đó một bệnh nhân phải mổ cấp cứu. Một trường hợp khác vỡ bàng quang 
sau mổ 10 tháng phải mổ khâu bàng quang. 
Kết luận: Có thể thực hiện phẫu thuật mở rộng bàng quang bằng ruột qua ngả nội soi ổ bụng thành công với 
sự hiệu quả và an toàn trong điều kiện của Việt Nam. Đã có nhiều tác giả báo cáo về phẫu thuât mở rộng bàng 
quang bằng ruột qua ngả nội soi ổ bụng, nhưng theo hiểu biết của chúng tôi, đây có thể là báo cáo đầu tiên ứng 
dụng phẫu thuật nội soi trong mở rộng bàng quang bằng ruột kết hợp đồng thời với cắm lại niệu quản vào bàng 
quang và tạo van chuyển lưu nước tiểu có kiểm soát. 
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi; Mở rộng bàng quang bằng ruột; Bàng quang thần kinh. 
ABSTRACT 
LAPAROSCOPIC SURGERY FOR AUGMENTATION ENTEROCYSTOPLASTY COMBINED WITH 
URETERAL REIMPLANTATION AND URINARY CONTINENT STOMA 
Nguyen Van An, Pham Huu Doan, Vo Trong Thanh Phong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 324 - 329 
Purpose: We study the possibility of using laparoscopy to perform augmentation enterocystoplasty 
associated with ureteral reimplantation in Binh Dan hospital, Viet Nam. 
Methods and materials: 68 neurogenic bladder or low-compliance bladder patients were operated by 
augmentation enterocystoplasty via laparoscopy. Among them, 33 were combined with reimplanting ureters to 
augmented bladders, and 9 were associated with performing continent stomas. 
Results: From July 2008 to April 2013, 68 cases of augmentation enterocystoplasty by laparoscopy were 
performed at Binh Dan hospital, composed of 37 men and 31 women. Mean ages ~ 35,89. Mean operation time 
was ~ 371,78 minutes. One case had to convert caused by being twisted of pedicle of intestinal portion used for 
plasty. Mean hospital stay was ~ 9,96 days. Times of following-up from 3 – 36 months. Three cases was suffered 
from intestinal obstruction 1 month post-op and one had to reoperate. Another case was suffered from augmented 
* Khoa Niệu A – bệnh viện Bình Dân 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Văn Ân ĐT: 0908 163 284 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 325
bladder perforation caused having no interrupted catheterization 10 months after operation and had to reoperate. 
Conclusion: Augmentation enterocystoplasty via laparoscopic surgery can be performed successfully with 
efficacy and safety in the condition of Viet Nam. Many authors have reported laparoscopic augmentation 
cystoplasty, but to our knowledge, this may be the first report which performs laparoscopic augmentation 
enterocystoplasty, ureteral reimplantation and continent stoma simultaneously. 
Key words: Laparoscopy; Augmentation enterocystoplasty; Neurogenic bladder. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật mở rộng bàng quang bằng ruột 
đã được thực hiện nhiều năm, Mikulicz (1898) 
dùng hồi tràng, Couvelaire (1950) dùng manh 
tràngĐến nay đã có hàng trăm báo cáo về 
phẫu thuật này bởi nhiều tác giả. Tuy nhiên 
phẫu thuật nội soi mở rộng bàng quang bằng 
ruột được báo cáo bởi một số ít tác giả trong 10 
năm gần đây. Docimo thực hiện ca đầu tiên 
(1995) bằng dạ dày(1). Năm 2000, Gill và 
Rackley báo cáo 3 trường hợp phẫu thuật nội 
soi mở rộng bàng quang bằng ruột ở 
Cleveland (Hoa Kỳ)(4). Sau đó Elliott (2002) 
thực hiện ở California (Hoa Kỳ)(3), Lorenzo 
(2007) thực hiện ở Toronto (Canada)(5), Nunez 
thực hiện ở Madrid (Tây Ban Nha)(8), mỗi tác 
giả báo cáo 1 – 2 trường hợp phẫu thuật nội 
soi mở rộng bàng quang bằng ruột. 
 Bài viết này trình bày kinh nghiệm của bệnh 
viện Bình Dân qua 68 trường hợp phẫu thuật nội 
soi mở rộng bang quang bằng ruột từ tháng 
06/2008 đến tháng 12/2011. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Những bệnh nhân được chẩn đoán bàng 
quang thần kinh co thắt hoặc tăng trương lực 
(spastic or hypertonic neurogenic bladder) với 
biến chứng ứ nước thận hoặc thất bại điều trị 
nội khoa. 
Phẫu thuật can thiệp 
Phẫu thuật nội soi mở rộng bàng quang bằng 
ruột (kỹ thuật Goodwin). 
Cắm lại niệu quản vào bàng quang đối với 
những bệnh nhân ứ nước thận nặng do ngược 
dòng bàng quang niệu quản hoặc hẹp khúc nối 
bàng quang niệu quản. 
Tạo van chuyển lưu nước tiểu (kỹ thuật 
Monti) đối với những bệnh nhân gặp khó khăn 
trong đặt thông tiểu cách quản như liệt tứ chi, 
hẹp niệu đạo nặng. 
Kỹ thuật 
Bệnh nhân được gây mê, nằm ngửa đầu thấp 
theo tư thế Trendelenburg. 
Đặt 4 trocar: 1 trocar đường kính 10 mm 
ngay rốn, 1 trocar 10 mm bờ ngoài cơ thẳng 
bụng, dưới rốn 2 cm, 2 trocar 5 mm vùng chậu 
bẹn cách gai chậu trước trên 2 cm (hình 1). 
Hình 1a: Vị trí các trocars 
Hình 1b: Sẹo mổ sau 1 năm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 326
Camera quan sát đỉnh bàng quang, góc hồi 
manh tràng để tìm phần xa hồi tràng. Mở rộng lỗ 
trocar rốn 3cm, lấy đoạn xa hồi tràng ra ngoài. 
Chọn một đoạn hồi tràng dài khoảng 30cm từ 
phần xa hồi tràng để mở rộng bàng quang. Khâu 
phục hồi lưu thông hồi tràng bằng đường khâu 
nối tận – tận. Phần ruột khâu phục hồi được đưa 
vào trong ổ bụng. Đoạn ruột được cắt ra được xẻ 
dọc và khâu lại tạo dáng chữ U bên ngoài bụng 
bằng chỉ vicryl 4.0 (hình 2).Trường hợp cắm lại 
niệu quản vào bàng quang tân tạo: mở phúc mạc 
thành sau, giải phóng niệu quản đến gần bàng 
quang, kẹp clip niệu quản và cắt rời niệu quản 
đưa ra ngoài qua lỗ trocar. Cắm lại niệu quản 
vào tấm ruột đã khâu, đặt thông JJ lưu. 
Trường hợp tạo van chuyển lưu có kiểm 
soát: chọn một đoạn hồi tràng có mạch máu nuôi 
tốt, xẻ dọc và khâu ngang đoạn hồi tràng này tạo 
nên một ống nhỏ (tương tự kỹ thuật Monti), 
khâu nối ống này vào tấm ruột. Tấm hồi tràng 
được đưa lại vào ổ bụng, khâu phục hồi thành 
bụng và đặt lại trocar. 
 a
 b
 c 
Hình 2a, 2b, 2c: Cắt, khâu nối và tạo hình ruột ngoài ổ bụng qua lỗ trocar rốn xẻ rộng 
Thực hiện trong ổ bụng: mở phúc mạc và 
đỉnh bàng quang được ngoài phúc mạc hóa. 
Đỉnh bàng quang được xẻ ngang bằng dao điện 
(chiều dài của đường xẻ này tương ứng với chu 
vi của tấm hồi tràng). Sau đó khâu tấm hồi tràng 
vào đỉnh bàng quang với chỉ vicryl 3.0. Đặt 
thông niệu đạo để dẫn lưu dịch trong bàng 
quang (Foley 8F). Kiểm tra sự rò rỉ nước bằng 
cách bơm nước vào bàng quang, khâu tăng 
cường những nơi còn rò nước. Ngoài phúc mạc 
hóa bằng cách khâu rìa phúc mạc lên phía trên 
đường khâu nối ruột – bàng quang với chỉ 
chromic 3.0. 
Trên những bệnh nhân tạo van chuyển lưu, 
đầu còn lại của van sẽ được đưa qua cơ thẳng 
bụng, khâu vào da bụng và đặt một Foley 14 Fr 
qua van vào bàng quang. 
Sau khi khâu xong, rửa và hút sạch ổ bụng, 
dẫn lưu túi cùng Douglas qua hai lỗ trocar vùng 
chậu. Cuối cùng, rút trocar và khâu các lỗ trocar. 
KẾT QUẢ 
Từ 06/ 2008 đến 04/2013, có 68 trường hợp 
được phẫu thuật nội soi mở rộng bàng quang 
bằng ruột được thực hiện tại Bệnh viện Bình 
Dân. 
Nam/nữ: 37/31. 
Tuổi trung bình: 35,89 ± 17 (từ 8 – 74 tuổi). 
Có 30 trường hợp chỉ mở rộng bàng quang, 
33 trường hợp mở rộng bàng quang kết cắm lại 
niệu quản vào bàng quang, 9 trường hợp mở 
rộng bàng quang kết hợp cắm lại niệu quản và 
tạo van chuyển lưu. 
Thời gian phẫu thuật trung bình: 317,78 ± 
51,34 phút (180 – 390 phút). 
Không có biến chứng nặng trong phẫu thuật. 
Một trường hợp phải chuyển mổ mở vì sau 
khi khâu nối ruột vào bàng quang thì thấy ruột 
bị tím. Khi mở ra kiểm tra thì thấy cuống mạc 
treo bị xoắn 180 độ do định vị không đúng trong 
lúc khâu nối. Sau khi tháo các mối chỉ khâu, định 
vị lại cho đúng và khâu nối lại ruột – bàng quang 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 327
thì ruột hồng trở lại và diễn tiến hậu phẫu tốt. 
Máu mất trung bình trong mổ: 127,02 ± 84,21 
(min = 5, max = 400) 
Thời gian nằm viện trung bình: 9,96 ± 2,85 
ngày (6 – 17 ngày). 
Theo dõi sau mổ từ 3 đến 36 tháng. 
Có 6 trường hợp biến chứng nặng sau mổ 
được ghi nhận: 
- 3 trường hợp tắc ruột sau mổ, hai trường 
hợp tự khỏi và 1 trường hợp phải mổ lại. Khi mổ 
lại thấy nguyên nhân tắc ruột là do thoát vị nội 
của hồi tràng chui qua khe của niệu quản đoạn 
cuối do khi mổ không khâu phúc mạc che phủ 
niệu quản. 
- Một vỡ bàng quang tự phát sau mổ 10 
tháng do ngủ quên quá 12 giờ không đặt thông 
tiểu (những trường hợp tiểu không hiệu quả sẽ 
được hướng dẫn đặt thông tiểu cách quảng mỗi 
6 giờ). Trường hợp này cũng được phẫu thuật 
cấp cứu khâu lại bàng quang vỡ. 
- Trường hợp thứ 5 nhiễm trùng nặng suốt 2 
tháng, bệnh nhân được điều trị khỏi bằng kháng 
sinh mạnh (Timentin). 
- Trường hợp thứ 6 bị suy thận không hồi 
phục, phải được điều trị bằng lọc máu định kỳ. 
Đa số những trường hợp còn lại theo dõi sau 
mổ có diễn tiến thuận lợi, nhiều trường hợp cải 
thiện mức độ chướng nước thận hết sức ngoạn 
mục (hình 3) 
A B C 
Hình 3: Bệnh nhân Trần Hồng D., nữ 22 tuổi, bàng quang thần kinh tăng trương lực, gây ứ nước thận 2 bên 
A: UIV trước mổ; B: Cystography sau mổ 6 tháng; C: UIV sau mổ 1 năm 
BÀN LUẬN 
Bàn về số báo cáo trong y văn 
Cho đến nay sau 18 năm kể từ báo cáo của 
Docimo(1), trong y văn chỉ có khoảng 15 báo cáo 
về đề tài này, có lẽ vì theo Rackley: phẫu thuật 
nội soi mở rộng bàng quang bằng ruột phức tạp 
và kéo dài. Hầu hết các bài báo trình bày một số 
ít bệnh nhân, trong đó El-Feel (2009) báo cáo 
nhiều nhất là 23 trường hợp(2). Các báo cáo của 
chúng tôi có lẽ là có số lượng bệnh nhân nhiều 
nhất trong y văn: năm 2012, chúng tôi đã báo cáo 
ở Hội nghị Niệu khoa Thế giới ở Fukuoka (Nhật) 
với 48 trường hợp(6), năm nay loạt bệnh của 
chúng tôi là 68 bệnh nhân. 
Bàn về kỹ thuật mổ 
- Hầu hết các tác giả đều dùng hồi tràng như 
trong mổ mở. Quan điểm của chúng tôi, hồi 
tràng có lợi thế hơn so với dạ dày về phương 
diện vị trí và mạch máu nuôi, khâu nối hồi tràng 
đơn giản và ít biến chứng hơn đại tràng. 
- Những phẫu thuật viên thực hiện phẫu 
thuật trong phúc mạc thường dùng những dụng 
cụ hỗ trợ như: Endo-GIA cho khâu nối ruột, 
Endostitch cho khâu bàng quang ruột(1,3,5). Không 
có những dụng cụ hỗ trợ trên, nhằm rút ngắn 
thời gian phẫu thuật, chúng tôi mở rộng lỗ trocar 
rốn 3cm, đưa ruột ra ngoài, cắt và khâu nối trước 
khi đưa vào ổ bụng khâu với bàng quang. Gill(4) 
cũng thực hiện tương tự và đã đạt được kết quả 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 328
tốt. Thời gian phẫu thuật của Docimo rất dài 
(gần 11 giờ)(1) nhưng đây là trường hợp đầu tiên 
được báo cáo. Hơn nữa, khâu dạ dày cần cẩn 
thận và phải đưa mạch máu mạc treo từ động 
mạch thượng vị đến vùng chậu bẹn rõ ràng là 
cần thực hiện tỉ mỉ với phẫu thuật nội soi. Thời 
gian phẫu thuật của chúng tôi tương đương với 
kết quả của những tác giả khác, ngắn hơn 
Docimo và khoảng gấp đôi mổ mở. Tuy nhiên 
thời gian mổ sẽ ngắn hơn khi phẫu thuật viên trở 
nên kinh nghiệm và kỹ năng được cải thiện. 
Theo quan điểm của chúng tôi, thời gian 
phẫu thuật có thể rút ngắn và sự phức tạp của 
phẫu thuật có thể đơn giản hơn nếu chúng tôi 
dùng phẫu thuật nội soi hỗ trợ bằng tay thay vì 
chỉ dùng phẫu thuật nội soi thuần túy: một đoạn 
hồi tràng được mang ra ngoài qua vết mổ 3cm, 
cắt, nối, khâu và đưa vào ổ bụng để mở rộng 
bàng quang nội soi (hình 2a và 2b). Trong trường 
hợp cắm lại niệu quản vào bàng quang, niệu 
quản cũng được cắm vào tấm hồi tràng trước khi 
đưa vào ổ bụng khâu vào bàng quang (hình 2c). 
Sẹo mổ không quá lớn (hình 1b). 
Bảng 1: So sánh kết quả của chúng tôi và báo cáo của một số tác giả khác 
Tác giả Số ca Đoạn ruột Kỹ thuật Dụng cụ hỗ trợ Thời gian mổ 
DOCIMO (1995) 1 Dạ dày Pure laparoscopy 
 5 trocars 
Endo-GIA 
Endo-stitch 
10 giờ 55 phút 
GILL (2000) 3 Hồi tràng 
Đại tràng sigma 
Đại tràng xuống 
Hand-assissted 
laparoscopy 
4 trocars 
Không 5,3 giờ 
8 giờ 
7 giờ 
LORENZO (2007) 1 Hồi tràng Hand-assissted 
laparoscopy 
 3 trocars 
Endo GIA 
Endostitch 
? 
NÚÑEZ (2007) 2 Hồi tràng Hand-assissted 
laparoscopy 
 4 trocars 
? 4 giờ 30 phút 
đến 6 giờ 
EL-FEEL (2009) 23 Hồi tràng Hand-assissted 
laparoscopy 
 4 trocars 
Không 3 giờ 22 phút 
(165-330) 
NGUYEN VAN AN 
(2013) 
68 Hồi tràng Hand-assissted 
laparoscopy 
 4 – 5 trocars 
Không 5 giờ 18 phút 
(180 – 390 
phút) 
- Về số trocars: Một số tác giả dùng 5 trocar 
như Docimo và Elliott (hình 4a), trong khi một số 
tác giả khác dùng 3 trocar như Lorenzo (hình 
4b). Chúng tôi dùng 4 trocar tương tự như Gill 
(hình 4c) nhưng thỉnh thoảng chúng tôi dùng 
trocar thứ 5 để mở bàng quang ra da. Đầu năm 
2009, Noguera và cộng sự(7) báo cáo mở rộng 
bàng quang bằng ruột dùng 1 trocar (một loại 
mới với 4 kênh thao tác dụng cụ, hình 4d). 
Hình 4a: Eliott dùng 5 
trocar 
Hình 4b: Lorenzo dùng 3 
trocars 
Hình 4c: Gill dùng 4 
trocars 
Hình 4d: Noguera dùng 1 
trocar 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 329
Rút kinh nghiệm từ các tai biến - biến 
chứng trong lúc mổ hoặc sau khi mổ 
Chúng tôi nhận định: 
- Nên có những mũi khâu định vị tấm ruột 
trước khi đưa lại vào trong bụng, để khi khâu 
nối ruột với bàng quang sẽ dễ nhận định hơn, 
tránh để xoắn cuống mạc treo ruột. 
- Nên khâu đóng phúc mạc thành sau che 
đoạn niệu quản chậu (đoạn sắp sửa cắm vào 
phần ruột của bàng quang tân tạo), nhắm tránh 
bị tắc ruột do thoát vị nội. 
KẾT LUẬN 
Qua 68 trường hợp cho thấy phẫu thuật nội 
soi mở rộng bàng quang bằng ruột là khả thi và 
hiệu quả trong điều kiện Việt Nam. Thời gian 
phẫu thuật dài hơn mổ mở nhưng bệnh nhân hồi 
phục tốt hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn và 
sẹo mổ thẩm mỹ hơn. Kết quả theo dõi 3 - 36 
tháng có thể xem tương tự như mổ mở. 
Tìm kiếm cẩn thận trong y văn cho thấy số 
lượng báo cáo không nhiều. Báo cáo của chúng 
tôi có lẽ có số bệnh nhân nhiều nhất và có lẽ là 
tác giả đầu tiên báo cáo về phẫu thuật nội soi mở 
rộng bàng quang bằng ruột kết hợp cắm lại niệu 
quản vào bàng quang và tạo van chuyển lưu có 
kiểm soát nước tiểu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Docimo SG, Moore RG, Adams J et al (1995). Laparoscopic 
bladder augmentation using stomach. Urology 46: 565-569. 
2. El-Feel A, Abdel-Hakim MA, Abouel-Fettouh H, Abdel-
Hakim AM (2009). Laparoscopic Augmentation 
Ileocystoplasty: Results and Outcome. Eur Urol 55: 721–728. 
3. Elliott SP, Meng MV, Anwar HP, Stoller ML (2002). Complete 
laparoscopic ileal cystoplasty. Urology 59(6): 939-943. 
4. Gill IS, Rackley RR, Meraney AM, Marcello PW, Sung GT 
(2000). Laparoscopic enterocystoplasty. Urology 55(2): 178-81. 
5. Lorenzo AJ, Cerveira J, Farhat WA (2007). Pediatric 
laparoscopic ileal cystoplasty: complete intracorporeal surgical 
technique. Urology 69(5): 977-81. 
6. Nguyen Van-An (2012). Laparoscopic augmentation 
enterocystoplasty for treatment of contracted bladder. Urology 
80 (3A): S58. 
7. Noguera RJS, Astigueta JC, Carmona O, De Andrade RJ, Luis 
S, Cuomo B, Marique J, Gill IS, Desai MM (2009). 
Laparoscopic Augmentation Enterocystoplasty Through a 
Single Trocar. Urology 73: 1371-74. 
8. Núñez MC, Cansino AR, Alonso GS, Martínez-Piñeiro LL, De 
la Peña BJ (2009). Laparoscopic augmentation 
enterocystoplasty: initial experience. Actas Urol Esp. (2007) 
Jan; 31(1): 17-22. [abstract] 
Ngày nhận bài báo: 31/10/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/12/2013 
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014