Đặt vấn đề: Điều trị HIV/AIDS bằng ARVs có thể kéo dài suốt đời, vì vậy những tác dụng phụ không
mong muốn có thể xuất hiện, trong đó rối loạn lipid là một vấn đề mới được đề cập gần đây.
Mục tiêu: Khảo sát rối loạn lipid ở bệnh nhân nhiễm HIV điều trị ARV phác đồ bậc 2 tại Bệnh viện Bệnh
Nhiệt Đới.
Phương pháp: Tiền cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Rối loạn lipid máu trong nghiên cứu được ghi nhận ở 159/217(73,3%) bệnh nhân nhiễm
HIV/AIDS được điều trị bằng ARVs bậc 2, trong đó rối loạn kiểu nhóm 1 (tăng cholesterol + triglycerid) là 89
(41%) bệnh nhân, nhóm 2 (tăng cholesterol + triglycerid + LDL‐C) là 84 (38,7%) và nhóm 3 (tăng cholesterol +
triglycerid + LDL‐C và giảm HDL‐C) là 52 (24%). Tăng Cholesterol được ghi nhận 47,9% (Trị số trung bình
5,42 ± 1,84 mmol/L), Triglycerid 71,4% (Trị số trung bình 4,35 ± 3,34 mmol/L), LDL ‐C 58,1% (Trị số trung
bình 4,68 ± 3,31 mmol/L) và giảm HDL‐C 35% (Trị số trung bình 1,17 ± 0,50 mmol/L). Rối loạn lipid máu có
liên quan đến với tuổi và nồng độ Hb.
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 667 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Rối loạn lipid máu ở bệnh nhân hiv/aids điều trị arv bậc 2 tại bệnh viện bệnh nhiệt đới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
sống. Phục hồi miễn dịch đánh giá dựa vào sự 
gia  tăng  tế  bào  T CD4  +,  giảm  tải  lượng  virus 
dưới  ngưỡng  phát  hiện,  không  xuất  hiện  các 
bệnh nhiễm  trùng cơ hội. Tuy nhiên, việc  điều 
trị  này  thường  đưa  đến tăng  cholesterol  toàn 
phần, LDL‐C và  triglyceride. Trong phác đồ có 
thuốc ức chế men sao chép ngược không có gốc 
(non‐nucleos(t)ide  reverse  transcriptase 
inhibitors = NNRTI),  có  sự gia  tăng  cholesterol 
toàn  phần,  LDL‐C  và  triglycerids,  tăng 
triglyceride  thường  không  nghiêm  trọng  như 
phác đồ có sử dụng PI. Thời gian điều trị kéo dài 
cũng  gây  rối  loạn  lipid máu. Nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  thấy  bệnh  nhân  có  tiền  sử  điều  trị 
ARV bậc 1 từ 12‐36 tháng tỉ lệ rối loạn lipid máu 
nhiều hơn. Nghiên  cứu  của Calza L(2)  trên  130 
bệnh nhân năm 2005 cho thấy tỉ lệ rối loạn lipid 
máu  sau  12  tháng  điều  trị  42,2%.  Tỉ  lệ  trong 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 409
nghiên cứu của chúng tôi là 40,6%, chỉ nói được 
bệnh nhân có tiền sử dùng ARV bậc 1 thời gian 
12‐  36  tháng  có  rối  loạn  lipid máu  nhiều  hơn 
nhưng lại không có khác biệt thống kê giữa các 
nhóm.  
Liên quan tiền căn sử dụng d4T phác đồ ARV 
bậc 1 với rối loạn lipid máu ở phác đồ bậc 2 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân 
có  tiền  sử  điều  trị  d4T  trước  khi  chuyển  sang 
phác đồ ARV bậc 2 tỉ lệ rối loạn lipid máu nhóm 
1 là 40,8%, nhóm 2 là 36,7% và nhóm 3 là 27,6%. 
Nghiên cứu của Katherin) cho thấy bệnh nhân có 
tiền  sử điều  trị d4T  thì  tỉ  lệ  rối  loạn  lipid máu 
nhiều hơn khi chuyển sang phác đồ so với người 
không có  tiền sử điều  trị d4T. Một nghiên cứu 
khác của Johannes R(5) và cộng sự thực hiện năm 
2004 có tỉ  lệ rối  loạn  lipid máu ở bệnh nhân sử 
dụng  d4T  sau  42  tháng  là  27%,  tương  tự  với 
nghiên cứu của chúng tôi.  
Liên quan tiền căn sử dụng NVP phác đồ ARV 
bậc 1 với rối loạn lipid máu ở phác đồ bậc 2 
NVP được ghi nhận ít gây rối loạn lipid máu 
hơn so với các thuốc khác trong nhóm NNRTIs. 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy giữa bệnh 
nhân có và không có tiền sử điều trị NVP không 
có khác nhau khi chuyển sang điều  trị phác đồ 
ARV  bậc  2. Nghiên  cứu  của Marianne  S(9)  cho 
thấy NVP gây  rối  loạn  lipid máu  thấp hơn các 
thuốc cùng nhóm NNRTIs. 
Liên quan tiền căn sử dụng EFV phác đồ ARV 
bậc 1 với rối loạn lipid máu ở phác đồ bậc 2 
Trong nhóm  thuốc NNRTIs, EFV  được ghi 
nhận gây  rối  loạn  lipid máu nhiều hơn  so với 
NVP. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận bệnh 
nhân có tiền căn sử dụng EFV trước khi chuyển 
sang phác đồ ARV bậc 2 tỉ lệ rối loạn lipid máu 
nhiều hơn so với không sử dụng ở cả 3 kiểu rối 
loạn (42,5% và 38,9%; 40,2% và 33,7%; 25,2% và 
22,2%). Một nghiên cứu cắt ngang của Eric W(13) 
thực hiện tại Cameroon được tiến hành từ tháng 
11 năm  2009  đến  tháng  1 năm  2010,  138  bệnh 
nhân HIV chưa điều trị ARV và 138 người khác 
được điều  trị  ít nhất 12  tháng với phác đồ bao 
gồm NVP  hoặc  EFV. Kết  quả  cho  thấy  nhóm 
dùng EFV  thì  có  tỉ  lệ  rối  loạn  lipid máu nhiều 
hơn. Như vậy, bệnh nhân  có  tiền  căn  sử dụng 
EFV  tỉ  lệ  rối  loạn  lipid máu  sẽ  cao hơn  so với 
nhóm bệnh nhân không có sử dụng  thuốc này 
trước khi chuyển sang phác đồ bậc 2. 
Mối liên quan rối loạn lipid máu và thời gian 
sử dụng ARV bậc 2 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  trên  217  bệnh 
nhân với thời gian điều trị ARV bậc 2 được chia 
ra làm ba loại: dưới 12 tháng, từ 12 đến 36 tháng 
và trên 36 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ 
lệ rối loạn lipid máu nhóm 1 ở bệnh nhân có thời 
gian điều trị ARV trên 36 tháng nhiều hơn 21‐36 
tháng và dưới 36 tháng (44,8%, 39,3% và 40%). Ở 
bệnh nhân có rối loạn nhóm 2 được dùng thuốc 
trên 36 tháng cũng cao hơn 2 kiểu nhóm còn lại. 
Rối  loạn kiểu nhóm 3  ở bệnh nhân  điều  trị  từ 
trên 36 tháng cao hơn nhóm bệnh nhân điều trị 
dưới  12  tháng  (27,5% vs  20%). Như vậy,  bệnh 
nhân  có  thời gian  điều  trị ARV  lâu hơn  có  rối 
loạn lipid máu nhiều hơn nhưng không có khác 
biệt  thống kê. Nghiên cứu của Katherine(6)  trên 
1035 bệnh nhân cho thấy thời điều trị ARV bậc 2 
lâu rối loạn lipid máu nhiều hơn (không có khác 
biệt thống kê), nghiên cứu của Adewole O(1) năm 
2010  tại Nigeria  trên  130  bệnh  nhân  cho  thấy 
bệnh nhân điều trị ARV trên 12 tháng có rối loạn 
lipd máu nhiều hơn so với nhóm dưới 12 tháng. 
Thời gian điều trị ARV dài hơn có rối loạn lipid 
máu nhiều hơn nhưng không có khác biệt thống 
kê. Như vậy, so với một số nghiên cứu trên thế 
giới, kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với các 
nghiên cứu đã thực hiện. 
Mối liên quan rối loạn lipid máu và tế bào T 
CD4+ ở bệnh nhân sử dụng ARV bậc 2 
Kết quả nghiên cứu liên quan giửa số lượng 
tế bào T CD4+ và rối loạn lipid máu của chúng tôi 
cho  thấy  rối  loạn  kiểu  nhóm  1  khi  T CD4+  (tế 
bào/mm3 máu) dưới 200 là 45,3%, cao hơn bệnh 
nhân có số lượng tế bào T CD4+ trên 200. Rối loạn 
kiểu nhóm 2 ở bệnh nhân có số  lượng tế bào T 
CD4+ thấp hơn cũng có rối loạn lipid máu nhiều 
hơn (41,5% so với (38,5%). Đối với rối loạn kiểu 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 410
nhóm 3, tỉ lệ rối loạn lipid máu ở bệnh nhân có T 
CD4+ dưới 200 và trên 200 tỉ lệ lần lượt là 24,5% 
và  23,8%. Như  vậy,  nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
cho thấy bệnh nhân có số lượng T CD4+ dưới 200 
sẽ  có  rối  loạn  lipid máu  nhiều  hơn  (không  có 
khác biệt thống kê giữa các nhóm), phù hợp với 
một  số nghiên  cứu khác  đã  thực hiện  trên  thế 
giới. Nghiên cứu của Catharina(3) thực hiện trên 
12.513 bệnh nhân ở Tanzania (2011) cho thấy có 
sự gia tăng trị số trung bình của triglyceride và 
LDL‐C khi số lượng tế bào T CD4+ dưới 200.  
Mối  liên  quan  rối  loạn  lipid máu  và ALT  ở 
bệnh nhân được điều trị phác đồ bậc 2 
Nồng độ ALT  trung bình  trong nghiên cứu 
của  chúng  tôi  là  37,16  ±  36,07  IU/L.  Kết  quả 
nghiên cứu cho  thấy nhóm 1  tỉ  lệ rối  loạn  lipid 
máu khi ALT  ≥ 45 và <40  lần  lượt  là 44,2% và 
31.1%.  Nhóm  2  (cũng  cho  kết  quả  tương  tự 
(41,7% so với 38,5%) và nhóm 3 kết quả lần lượt 
là (24,5% và 22,2%). Tuy có tỉ lệ rối loạn cao hơn 
nhưng  không  có  khác  biệt  thống  kê  giữa  các 
nhóm.  Tăng men  gan  kèm  rối  loạn  lipid máu 
cũng  có  thể  do  bệnh  lý  chuyển  hóa  ở  gan. 
Nghiên  cứu  của  Adewole(1)  (2010)  cho  thấy 
không có sự liên quan giữa viêm gan và rối loạn 
lipid máu. Tăng men gan liên quan đến rối loạn 
lipid máu  trên  bệnh  nhân  điều  trị ARV  bậc  2 
chưa  được  nghiên  cứu  nhiều. Kết  quả  nghiên 
cứu  của  chúng  tôi  chưa  phù  hợp  với một  số 
nghiên  cứu  trên  thế  giới  nên  cần  có  nhiều 
nghiên cứu cỡ mẫu lớn hơn, thời gian dài hơn để 
kết luận vấn đề này. 
Mối liên quan của Hb đến rối loạn lipid máu ở 
bệnh nhân được điều trị phác đồ ARV bậc 2 
Điều trị ARV đã cải thiện rõ rệt về lâm sàng, 
bệnh nhân hết nhiễm trùng cơ hội, sinh hoạt tốt 
hơn và cải thiện tình trạng thiếu máu. Hb trung 
bình trong nghiên cứu của chúng tôi 13,66 ± 1,81 
g/L. Liên quan giữa rối loạn lipid máu và nồng 
độ Hb trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 
như sau bệnh nhân có Hb trên 12g/L có rối loạn 
lipd  máu  nhiều  hơn  nhóm  bệnh  nhân  thiếu 
máu. Ở nhóm 3, bệnh nhân điều trị ARV bậc 2, 
Hb trên 12g/L rối loạn có liên đến rối loạn lipid 
máu và có khác biệt giữa 2 nhóm (26% và 13,9% 
với p= 0,049). Một nghiên cứu tại Hàn Quốc của 
Ozdemir A(11) thực hiện năm 2007 trên 427 bệnh 
nhân ghi nhân nhóm  bệnh nhân  có  chỉ  số Hb 
trên 14g/L  sẽ  có  rối  loạn  lipid máu nhiều hơn. 
Giải  thích điều này có  thể do Hb <12g/L gặp ở 
những  bệnh  nhân  có  tình  trạng  suy  kiệt  kèm 
thiếu máu, BMI sẽ  thấp nên  tình  trạng rối  loạn 
lipid máu  sẽ  thấp hơn. Kết quả này  cũng phù 
hợp với nghiên  cứu  của  chúng  tôi. Tuy nhiên, 
liên quan giữa chỉ số Hb và rối  loạn  lipid máu 
trên bệnh nhân HIV/AIDS sử dụng ARV bậc 2 
chưa được khảo sát nhiều trong các nghiên cứu 
trên thế giới. 
KẾT LUẬN 
Rối  loạn  lipid máu  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi được ghi nhận ở 159/217 (73,3%) bệnh 
nhân,  trong đó các chỉ số rối  loạn kiểu nhóm 1 
(tăng cholesterol và triglyceride) là 41%, nhóm 2 
(tăng  cholesterol,  triglyceride  và  LDL‐C)  là 
38,7% và nhóm 3 (tăng cholesterol + triglycerid + 
LDL‐C  và  giảm  HDL‐C)  là  24%.  Tăng 
Cholesterol được ghi nhận 47,9% bệnh nhân với 
trị  số  trung  bình  5,42  ±  1,84  mmol/L,  tăng 
triglyceride  71,4%  với  trị  số  trung  bình  4,35  ± 
3,34 mmol/L, tăng LDL‐C 58,1% với trị số trung 
bình  4,68  ±  3,31 mmol/L  và  giảm HDL‐C  35% 
với trị số trung bình 1,17 ± 0,50 mmol/L.  
Các yếu  tố  tuổi,  thời gian nhiễm HIV,  thời 
gian sử dụng ARV bậc 1, thời gian sử dụng ARV 
bậc 2,  trị số ALT, Hb có  liên quan đến rối  loạn 
lipid máu nhưng không có giá trị thống kê.  
Tóm  lại, qua nghiên cứu chúng  tôi mới ghi 
nhận có rối  loạn  lipid máu ở bệnh nhân nhiễm 
HIV/AIDS nhưng chưa tìm được các yếu tố liên 
quan  cũng như diễn  tiến  cơ học nồng  độ  lipid 
trong quá  trình điều  trị cũng như hậu quả của 
rối loạn lipid trên bệnh nhân.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Adewole  O,  Eze  S,  Betiku,  Anteyi  E,  Wada  I, Ajuwon  Z, 
Erhabor G,  (2010),  “Lipid  profile  in  HIV/AIDS  patients  in 
Nigeria”, Afr Health Sci, 10(2), pp. 144–149 
2. Calza L, Manfredi R, Chiodo F., et al, (2011), “Dyslipidaemia 
associated  with  antiretroviral  therapy  in  HIV‐infected 
patients” Journals Antimicrobial Chemotherapy, 53(1), pp. 10‐14 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 411
3. Carlos D, Aberg J, et al. (2011), “Management of dyslipidemia 
in HIV‐infected”,  Clinical  Infectious Diseases,  37, (5),  pp. 613‐
627 
4. Eoin R, Patrick W,  (2011),  “HIV  and HAART‐Associated 
Dyslipidemia Open Cardiovasc”, Med J, 5, pp. 49–63. 
5. Johannes R, Vielhauer V, Beckmann RA.; Michl G, Wille L, 
Salzberger B et al. (2004), “Stavudine Versus Zidovudine and 
the Development of Lipodystrophy”, AIDS, 28, pp. 263‐279. 
6. Katherine S, (2010), “Metabolic consequences and therapeutic 
options  in  highly  active  antiretroviral  therapy  in  human 
immunodeficiency  virus‐1  infection”,  J  Antimicrobial 
Chemotherapy, 61(2), pp. 238‐245 
7. Lê Bửu Châu (2009), “Diễn biến bệnh nhân nhiễm HIV người 
lớn sau điều trị ARV phác đồ bậc 1 tại Bệnh viện Bệnh nhiệt 
đới Tp.Hồ Chí Minh”. Luận văn Thạc sỹ Y học. 
8. Marianne S, Raffi F, Capeau J, Willy R, Marie R, Christian P, 
et al (2008), “Factors related to  lipodystrophy and Metabolic 
Alterations in Patients with Human Immunodeficiency Virus 
infection  receiving  highly  active  antiretroviral  therap”, Clin 
Infect Dis, 34(10), pp. 1396‐1405. 
9. Nawakatare  JM,  (2012),  “Assement  ofrisk  factor  for 
cardiovasculardiseases among HIV infected patiens artending 
muhimbili national hospital care and treatment clinic”, Mmed, 
30, pp. 470‐491 
10. Nery  MW,  Martelli  CM,  Turchi  MD,  et  al.  (2011), 
“Dyslipidemia  in  AIDS  patients  on  highly  active 
antiretroviral therapy”, Braz J Infect Dis, 15(2), pp.151‐155. 
11. Ozdemir A, Sevinç  C, Selamet U, Türkmen  F,  (2007),  “The 
relationship  between  iron  deficiency  anemia  and  lipid 
metabolism in premenopausal women”, Am J Med Sci, 334(5), 
pp. 331‐3. 
12. Pefura EW, Foueudjeu A, KengneAP, Kaze FJ, Ngogang J, et 
al. (2011), “First‐line antiretroviral therapy and dyslipidemia 
in people living with HIV‐1 in Cameroon”, AIDS Res Ther, 8, 
pp. 25‐33. 
13. Pefura Yone EW, Betyoumin AF, Kengne AP, Kaze Folefack 
FJ, Ngogang  J..  (2011),  “First‐line  antiretroviral  therapy  and 
dyslipidemia  in  people  living with HIV‐1  in  Cameroon:  a 
cross‐sectional study”, AIDS Res Ther, 33 (8), pp. 1142‐1186.  
14. Périard  D, Telenti  A, Cheseaux  JJ, Halfon  P, Reymond 
MJ, Marcovina  SM.  (1999),  “Atherogenic  dyslipidemia  in 
HIV‐infected individuals treated with protease inhibitors. The 
Swiss HIV Cohort Study”, Mesh, 100(7), pp. 700‐5. 
15. Phạm Bá Hiền, Thẩm Chí Dũng, Trần Viết Tiến và Nguyễn 
Văn Mùi, (2009), “Đánh giá tác dụng không mong muốn của 
hai  phác  đồ  điều  trị  bệnh  nhân  AIDS:  Stavudine  + 
Lamivudine  + Nevirapine  và  Zidovudine  +  Lamivudine  + 
Nevirapine”, Tạp chí Y học Dự phòng, 21, pp. 96‐102. 
Ngày nhận bài báo: 07/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 401_0041.pdf 401_0041.pdf