Trường phái Vêđanta (Kết thúc Vêđa) xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do 
Badarayanakhởi xướng và Sankaraphát triển. Là một trường phái triết học –tôn 
giáo, Vêđanta tiếp nối các tư tưởng của Upanisát,đưa ra các kiến giải siêu hình và 
duy tâm về nguyên nhân hình thành thế giới(vũ trụ và vạn vật). Những tư tưởng 
triết học cơ bản của nó là:
Một là,thừa nhận sự tồn tại của brátman – linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối 
cao, là bản chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành 
và hủy diệt của mọi cáitrong thế giới.
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm triết học cổ đại – Hệ thống trường phái vêddanta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm triết học cổ đại – hệ thống trường phái vêddanta 
B. HỆ THỐNG CHÍNH THỐNG 
1. Trường phái Vêđanta 
Trường phái Vêđanta (Kết thúc Vêđa) xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do 
Badarayana khởi xướng và Sankara phát triển. Là một trường phái triết học – tôn 
giáo, Vêđanta tiếp nối các tư tưởng của Upanisát, đưa ra các kiến giải siêu hình và 
duy tâm về nguyên nhân hình thành thế giới (vũ trụ và vạn vật). Những tư tưởng 
triết học cơ bản của nó là: 
Một là, thừa nhận sự tồn tại của brátman – linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối 
cao, là bản chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành 
và hủy diệt của mọi cái trong thế giới. 
Hai là, coi átman – linh hồn cá nhân – là hiện thân của brátman nơi thể xác trần 
tục của con người và bị vây hãm, ràng buộc bởi những ham muốn nhục dục của 
thể xác. Để giải thoát átman khỏi sự vây hãm ràng buộc này, con người (átman) 
phải dốc lòng tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm tâm linh để nhận ra bản tính thần 
thánh của mình mà quay về với Brátman. 
Ba là, coi thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh do vô minh của con người mang lại. 
Phái Vêđanta chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, nó đã 
không đứng vững trước lập trường duy tâm nhất nguyên của mình. Sang thời trung 
đại, nó đã chuyển dần sang lập trường nhị nguyên. Dù vậy, nó vẫn là cơ sở triết 
học của giáo lý đạo Bàlamôn – Hinđu. 
2. Trường phái Samkhya 
Trường phái Samkhya (Số luận) do Kapila (~350-250 TCN) khởi xướng, và sau 
đó, Isvarakrisna phát triển thêm. Lý luận cơ bản của phái này là học thuyết duy 
vật về bản nguyên của thế giới. Những tư tưởng triết học cơ bản của nó là: 
Một là, không thừa nhận sự tồn tại của brátman và thần thánh, mà thừa nhận bản 
nguyên của thế giới là prakriti – vật chất đầu tiên, tiềm ẩn, không hình dạng, 
không giới hạn, không thể nhận biết được bằng cảm tính. 
Hai là, thừa nhận vạn vật chỉ là thể thống nhất, tác động và chuyển hóa lẫn nhau 
giữa 3 yếu tố là sativa (nhẹ nhàng, thuần khiết), razas (tích cực, năng động) và 
tamas (nặng, ỳ). 
Ba là, thừa nhận tồn tại luật nhân quả chi phối mọi sự chuyển hóa trong thế giới 
vật chất [vật chất ® tri năng ® ngũ giác (thị, thính, khứu, vị, xúc giác) ® trí tuệ 
(năng lực nhận thức); vật chất ® ngũ quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, da) và 
ngũ quan tác động (cuống họng, bàn tay, bàn chân, cơ quan bài tiết, cơ quan sinh 
dục); vật chất ® ngũ hành (không khí, lửa, nước, đất và ête); vật chất ® linh hồn 
hay tinh thần (purusa)]. Purusa không phải là linh hồn thế giới như Vêđa quan 
niệm mà chỉ là nguyên lý phổ quát, bất biến của cá tính trong các sinh vật. Nó giúp 
thực hiện việc truyền sinh khí, đẩy mạnh sự biến hóa của các yếu tố vật chất. 
Phái Samkhya chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, nó đã 
không đứng vững trước lập trường duy vật nhất nguyên của mình mà chuyển dần 
sang lập trường nhị nguyên vào thời trung đại. Khi thừa nhận sự tồn tại song hành 
hai yếu tố đầu tiên là prakriti và purusa, Isvarakrisna coi vạn vật chỉ là thể thống 
nhất, tác động, chuyển hóa của chúng; mà cụ thể là, sự tác động giữa thể tinh và 
thể thô. Là trung tâm của nghiệp, thể tinh bao gồm trí tuệ, giác quan và các yếu tố 
gắn liền với chúng cũng như cảm giác về cái tôi, về bản thân chủ thể; nó luôn đi 
theo Purusa khi nào còn chưa được giải thoát. Thể thô gắn liền với các yếu tố vật 
chất và chết đi cùng với các yếu tố vật chất. 
3. Trường phái Yôga 
Trường phái Yôga xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do đạo sĩ Patanjali sáng lập. Tư 
tưởng triết học cốt lõi của phái này là sự thừa nhận nguyên lý hợp nhất của vũ trụ 
nơi mỗi cá thể; và thông qua các phương pháp yôga mà mỗi cá thể có thể tập luyện 
để khai thác được sức mạnh vũ trụ tiềm ẩn trong mình để làm chủ mình, tiến tới 
làm chủ môi trường, và sau cùng, vươn tới sự giải thoát. Phương pháp yôga đòi 
hỏi sự kiên trì, tính tích cực tự giác kết hợp giữa rèn luyện thể xác và rèn luyện tư 
duy qua tám nguyên tắc cơ bản (Bát bảo tu pháp) là: cấm chế (giữ đúng điều răn); 
khuyến chế (thanh tịnh trong học tập kinh điển); tọa pháp (giữ đúng vị trí thân 
thể); điều tức (điều chỉnh hơi thở hợp lý); chế cảm (chế ngự, kiểm soát, làm chủ 
cảm giác); chấp trì (tập trung tư tưởng, trí tuệ vào một chỗ); thiền định (giữ tâm 
thống nhất); tuệ (trạng thái xuất thần làm bừng sáng tư duy hoà nhập vào đại ngã). 
4. Trường phái Mimansa 
Trường phái Mimansa xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do Gaimini khởi xướng và 
được nhiều người góp phần phát triển vào thời trung đại. Là một trường phái triết 
học – tôn giáo, Mimansa đưa ra các kiến giải nhằm biện hộ, củng cố và tuyên 
truyền cho các nghi thức được đề cặp đến trong Vêđa nói chung, trong giáo lý đạo 
Bàlamôn – Hinđu nói riêng. Tư tưởng chủ đạo của nó là: 
Một là, coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức; và do cảm giác không 
nhận thấy được thần linh, vì vậy, trong thế giới không có thần linh. 
Hai là, coi bản thân những nghi thức, lời kinh tự chúng đã có sức mạnh huyền bí 
đối với người tu hành để giúp họ trên con đường hành đạo, vì vậy, không cần đến 
thần linh nữa. 
Ba là, muốn giải thoát khỏi trạng thái hiện hữu phải thực hiện đúng mọi nghi thức 
được nêu ra trong Vêđa, trong giáo lý Bàlamôn – Hinđu, phải thực hiện mọi nghĩa 
vụ, bổn phận mà trật tự xã hội quy định. 
Phái Mimansa chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, nó đã 
không đứng vững trước lập trường vô thần của mình mà chuyển dần sang lập 
trường hữu thần vào thời trung đại. 
5. Trường phái Niaja 
Trường phái Niaja xuất hiện vào thế kỷ III TCN, do Gôtama sáng lập và được 
Vátsiaiana (thế kỷ IV) và Yđiatakara (thế kỷ VII) phát triển. Lý luận cơ bản của 
phái này bao gồm ba bộ phận là nguyên tử luận, lôgích học và lý luận về nhận 
thức. 
Về nguyên tử luận, phái này cho rằng, nguyên tử (Anu) là bản nguyên duy nhất 
tạo nên vạn vật trong thế giới. Nguyên tử là những hạt vật chất bé nhỏ, không 
đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, khác nhau về chất lượng, khối lượng, hình dạng và 
cách thức kết hợp. Khi kết hợp lại với nhau chúng tạo thành 4 thực thể vật lý là 
đất, nước, gió và lửa. Các thực thể này tồn tại trong một môi trường ête, trong 
không gian và thời gian. Khi phối hợp với nhau thì chúng tạo nên vạn vật đa dạng 
nhưng nhất thời – thế giới vật chất… Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của 
nguyên tử, phái này còn thừa nhận sự tồn tại của các linh hồn (Ya). Linh hồn thể 
hiện qua những ước vọng, ý chí, vui, buồn, giận hờn…; chúng có thể tồn tại tự do 
nhưng cũng có thể tồn tại trong trạng thái gắn kết vào nguyên tử. Bên cạnh Anu và 
Ya, phái này cho rằng tồn tại thần Isvara với vai trò điều phối sự kết hợp, tác động 
của các linh hồn hay giải thoát linh hồn ra khỏi nguyên tử. 
Về lôgích học, phái này đã xây dựng ngũ đoạn luận (suy luận với 5 mệnh đề: luận 
đề, nguyên nhân, ví du, suy đoán, kết luận). Xét về thực chất, thì đây là một biến 
tướng của tam đoạn luận (suy luận với 3 mệnh đề: đại tiền đề, tiểu tiền đề, kết 
luận). Bởi vì, trong ngũ đoạn luận, hai mệnh đề đóng vai trò luận đề và nguyên 
nhân được lập lại trong suy đoán và kết luận. Thí dụ, với ngũ đoạn luận: Trên đồi 
có lửa; vì trên đồi có khói; ở đâu có khói là ở đó có lửa; trên đồi đang có khói; 
vậy, trên đồi có lửa. Còn với tam đoạn luận: Ở đâu có khói là ở đó có lửa; trên đồi 
đang có khói; vậy, trên đồi có lửa. 
Về nhận thức luận, phái này thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại khách quan; 
còn cảm giác, kết luận, tương tự và bằng chứng là 4 phương thức nhận thức đáng 
tin cậy. Phái này cũng đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức, đồng thời 
cho rằng nhận thức là đúng khi nó phù hợp với bản chất của đối tượng và giúp con 
người đạt được mục đích đề ra; còn nếu ngược lại, thì đó là nhận thức sai lầm. 
Phái Niaja chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, sau này, 
nó liên kết với trường phái Vaisêsika. Tuy nhiên, sang thời trung đại chúng đã 
không đứng vững trên lập trường vô thần của mình mà chuyển dần sang lập 
trường hữu thần, – coi thần đã dùng nguyên tử để tạo nên thế giới. 
6. Trường phái Vaisêsika 
Trường phái Vaisêsika xuất hiện vào thế kỷ II TCN, do Kanađa sáng lập và được 
Parasatapađa (thế kỷ V) phát triển. Lúc đầu, quan điểm của phái này và phái 
Niaja có nhiều điểm giống nhau. Cũng như phái Niaja, tư tưởng chủ đạo của phái 
Vaisêsika tập trung trong nguyên tử luận, lôgích học và nhận thức luận. 
Về nguyên tử luận, phái này cho rằng, nguyên tử là bản nguyên duy nhất tạo nên 
vạn vật trong thế giới. Nguyên tử là những hạt vật chất bé nhỏ, không đồng nhất, 
bất biến, vĩnh hằng, khác nhau về chất lượng, khối lượng, hình dạng và cách thức 
kết hợp. Khi kết hợp lại với nhau chúng tạo thành 9 thực thể là đất, nước, gió, lửa, 
ête, thời gian, không gian, linh hồn và trí tuệ. 5 thực thể đầu là thực thể vật lý 
mang tính cảm giác được; còn các thực thể còn lại là thực thể phi cảm giác. Khi 
kết hợp với nhau thì chúng tạo nên vạn vật đa dạng, nhất thời – thế giới vật chất. 
Phái này thừa nhận sự tồn tại của một lực lượng vô hình không cảm giác được 
điều khiển sự kết hợp đó. 
Về lôgích học, phái này đã xây dựng lý luận về phạm trù. Họ nêu ra 7 phạm trù cơ 
bản để phản ánh sự tồn tại của thế giới là: thực thể, quan hệ, hoạt động, tính phổ 
biến, tính đặc thù, tính vốn có và cái hư vô. 
Về nhận thức luận, phái này đưa ra lý luận về tính tin cậy của nhận thức. Phái 
này coi đối tượng nhận thức tồn tại khách quan và nhận thức chỉ tin cậy được khi 
nó phản ánh trung thành với bản thân đối tượng; coi thực tiễn là thước đo độ tin 
cậy của tri thức (chân lý). Có 4 hình thức nhận thức không đáng tin cậy là ký ức, 
nghi ngờ, sai lầm và giả thuyết. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 triet_hoc_6__5332.pdf triet_hoc_6__5332.pdf