Aspirin (A) ra đời đã trên 100 năm và rất được ưa chuộng trong 
việc làm giảm đau, hạ sốt, chống viêm, nhưng cơ chế tác dụng mới dần 
dần được làm sáng tỏ. Nhà dược học Henry Oswald Jakson Collier 
(Anh), thuộc phòng thí nghiệm Parke Davis là người đầu tiên nêu ra giả 
thuyết là A đã đối nghịch với một tiến trình khởi phát bởi một phản ứng 
của cơ thể chống lại sự tấn công của mầm bệnh nhưng ông không chứng 
minh được ý kiến đề cập trên.
Aspirin (A) ra đời đã trên 100 năm và rất được ưa chuộng trong việc 
làm giảm đau, hạ sốt, chống viêm, nhưng cơ chế tác dụng mới dần dần được 
làm sáng tỏ. Nhà dược học Henry Oswald Jakson Collier (Anh), thuộc 
phòng thí nghiệm Parke Davis là người đầu tiên nêu ra giả thuyết là A đã 
đối nghịch với một tiến trình khởi phát bởi một phản ứng của cơ thể chống 
lại sự tấn công của mầm bệnh nhưng ông không chứng minh được ý kiến đề 
cập trên. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 1 
              
            Nội dung tài liệu Siêu aspirin: Huyền thoại và thực tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Siêu aspirin: Huyền thoại và thực tế 
Aspirin (A) ra đời đã trên 100 năm và rất được ưa chuộng trong 
việc làm giảm đau, hạ sốt, chống viêm, nhưng cơ chế tác dụng mới dần 
dần được làm sáng tỏ. Nhà dược học Henry Oswald Jakson Collier 
(Anh), thuộc phòng thí nghiệm Parke Davis là người đầu tiên nêu ra giả 
thuyết là A đã đối nghịch với một tiến trình khởi phát bởi một phản ứng 
của cơ thể chống lại sự tấn công của mầm bệnh nhưng ông không chứng 
minh được ý kiến đề cập trên. 
Aspirin (A) ra đời đã trên 100 năm và rất được ưa chuộng trong việc 
làm giảm đau, hạ sốt, chống viêm, nhưng cơ chế tác dụng mới dần dần được 
làm sáng tỏ. Nhà dược học Henry Oswald Jakson Collier (Anh), thuộc 
phòng thí nghiệm Parke Davis là người đầu tiên nêu ra giả thuyết là A đã 
đối nghịch với một tiến trình khởi phát bởi một phản ứng của cơ thể chống 
lại sự tấn công của mầm bệnh nhưng ông không chứng minh được ý kiến đề 
cập trên. 
Từ aspirin (A) đến các "siêu aspirin" 
Bước đột phá, nhờ giáo sư về dược, John Vane, tại Trường đại học y 
khoa Hoàng gia Anh. Ông phát hiện A ngăn cản việc hình thành 
cyclooscygenase (COX), một enzym thúc đẩy việc tạo ra các prostaglandine 
(P) (một hormon có liên quan đến việc điều tiết các chức năng cơ thể như: 
viêm, thân nhiệt và chứng co cơ). Không có COX thì không tạo ra P mà 
không có P thì không có những triệu chứng đau, sốt và viêm. Nhờ phát hiện 
này mà John Vane được phong tước hiệp sĩ ở Anh và năm 1982 ông được 
trao giải thưởng Nobel về y học. 
Từ đó, A mới được công nhận có nhiều tác dụng khác nhau ngoài việc 
làm giảm đau. Một trong các dẫn xuất chính của P là thromboxane (TXA2), 
chất gây ra co mạch và kích thích sự kết tập của các tiểu cầu dễ tạo thành 
cục máu đông trên thành trong của mạch máu. A ức chế tạo thành P nên 
ngăn cản việc xuất hiện TXA2, giảm được nguy cơ tạo thành cục máu đông 
nên chống được nhồi máu cơ tim. 
Năm 1993, nhà nghiên cứu Daniel Picot phát hiện ra 2 dạng đồng 
phân của COX là COX1 và COX2. COX1 được gọi là men tốt, có tác dụng 
bảo vệ niêm mạc dạ dày, còn COX2 được gọi là men xấu (làm tăng sự đau 
đớn và viêm nhiễm), do A tấn công cả COX1 và COX2 nên kích thích và 
gây các tai biến dạ dày, do đó đã xuất hiện hướng nghiên cứu tìm ra các 
thuốc ức chế có chọn lọc, chỉ tấn công COX2 mà không đụng chạm đến 
COX1 nhiều hãng thuốc nổi tiếng đua nhau tìm các chất mới có tính chất ức 
chế chọn lọc này. Những thuốc này được coi là thuốc chống viêm không 
steroid (non steroid antinflammatory drug: NSAID) thế hệ 3 và còn gọi là 
“siêu Aspirin". 
Các coxib xuất hiện 
Năm 1998, hãng dược phẩm (DP) Pfiger tung ra thị trường sản phẩm 
celecoxib (tên biệt dược celebrex), sau đó là valdecoxib (bd: Bextra), Hãng 
DP Merck đâu chịu kém, cũng cho ra lò sản phẩm rofecoxib (bd: vioxx) và 
Hãng Searle cũng đưa tin đang thử nghiệm thuốc frarecoxib. 
Qua thực nghiệm: chất celecoxib ức chế COX2 mạnh hơn ức chế 
COX1 khoảng 400 lần. Thuốc có tác dụng trên viêm khớp. Viên có hàm 
lượng 100-200mg. Uống 100mg/lần x 2 lần/ngày. Tối đa 400mg. Chất 
pofecoxib là chất ức chế đặc hiệu COX2, tác dụng mạnh làm giảm đau khớp 
tốt hơn celecoxib qua thí nghiệm trên 382 bệnh nhân, trên 40 tuổi, đều bị 
viêm xương khớp gối. Trước đây các thuốc chống viêm không steroid 
thường được kê đơn kèm theo các thuốc bảo vệ dạ dày nhưng tới khi có 
rofecoxib thì phần lớn thầy thuốc cho dùng rofecoxib và cắt các thuốc bảo 
vệ dạ dày (rofecoxib: dạng viên nén 12,5 và 25mg). 
Một nghiên cứu ở Canada tiến hành trên 54.000 bệnh nhân, tuổi từ 66 
trở lên, được theo dõi một năm, số người bệnh được dùng rofecoxib (14.500 
người) và celecoxib (18.900 người), số còn lại dùng các thuốc chống viêm 
không steroid khác, so sánh thấy các coxib dung nạp và hiệu quả tốt hơn 
(trong chữa trị viêm khớp). 
Celecoxib, lúc đầu được Cơ quan quản lý Thực phẩm và Thuốc của 
Mỹ (FDA) duyệt dùng trong viêm xương khớp, viêm khớp dạng thấp và 
dùng bổ trợ trong chứng polip gia đình là một bệnh di truyền hiếm gặp 
nhưng có thể dẫn đến ung thư kết tràng, sau này được duyệt thêm chỉ định 
điều trị đau cấp tính và chứng đau kinh tiên phát. Có công trình nghiên cứu 
thuộc Viện đại học bang Ohio (Mỹ) công bố nếu phụ nữ mỗi ngày dùng 
200mg celecobix thì nguy cơ ung thư vú giảm 83% (tiếc rằng công trình này 
được sự tài trợ của Hãng pfizer - chủ sản phẩm celecobix - nên có sự nghi 
ngờ về tính vô tư!). 
Các thuốc coxib được quảng cáo rầm rộ: "Đây là một thành quả liệu 
pháp dược học lớn nhất kể từ thời phát hiện ra aspirin. Được coi là "siêu 
aspirin". Các sản phẩm này có ưu điểm sử dụng không giới hạn trong điều 
trị đòi hỏi phải dùng thuốc giảm đau nhiều tháng, thậm chí nhiều năm". Nhờ 
đó, các thuốc trên nhanh chóng lọt vào loại bán chạy ở thị trường thuốc. 
Hãng DP Merck sau khi đã mạnh tay chi cho quảng cáo số tiền kỷ lục: 160,8 
triệu USD, lập tức doanh số bán của vioxx trong vòng một năm đã tăng từ 
320 triệu lên 1,5 tỷ USD và doanh số năm 2001 là 2,5 tỷ USD. Còn 
Celecoxib, một trong những át chủ bài của hãng Pfizer cũng nhờ quảng cáo 
và nhờ FDA cho mở rộng chỉ định dùng nên doanh số toàn thế giới khoảng 
2,2 tỷ USD (2001), xếp thứ 9 trong bảng xếp hạng các loại thuốc bán chạy 
nhất nước Mỹ. Nổi bật nhất là do được giới thiệu có khả năng ứng dụng 
trong điều trị bệnh ung thư đại tràng nên chỉ trong vòng 4 năm, ước tính đã 
có 27 triệu người bị bệnh trên dùng celecoxib. 
Hoa hồng có gai 
Dồn dập nhiều nơi thông báo về tác dụng phụ của thuốc coxib: 
- Australia công bố từ tháng 10/1999 đến tháng 4/2000 đã nhận 919 
báo cáo phản ứng có hại (ADR) của celecoxib gồm những phản ứng nhẹ 
(nôn, tiêu chảy, đau bụng, khó tiêu) và nặng (gây loét và chảy máu ống tiêu 
hóa). 
- Tổ chức Y tế Thế giới đã nhận được 32 báo cáo phản ứng tim mạch 
do huyết khối tắc mạch vì rofecoxib và 67 báo cáo về celecobix liên quan 
đến tim mạch. 
- Canada cũng thông báo từ 25/10/1999 đến 23/11/2000 đã nhận được 
151 báo cáo về rofecoxib trong đó tác dụng phụ về ống tiêu hóa 41%; tim 
mạch 16,6% và chuyển hóa 20,5%. Trong đó có 91 trường hợp nghiêm 
trọng, 5 trường hợp đã tử vong do nhồi máu cơ tim, thủng loét tá tràng ở 
người 70-91 tuổi, do đó sản phẩm này bị thu hồi vào tháng 9/2004. 
Một cuộc thử nghiệm với celecobix tiến hành trên 2.400 bệnh nhân, 
nếu dùng liều 400mg/ngày thì làm gia tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim thêm 
240%, liều 800mg ngày tăng 340%, phối hợp với neproxen (một loại thuốc 
kháng viêm không steroid) trong điều trị bệnh Alzheimer (mất trí nhớ) thì 
làm gia tăng 50% nguy cơ rối loạn nhịp tim. 
Các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu ung thư quốc gia Mỹ nhận 
xét, celecobix làm gia tăng hơn 3 lần nguy cơ nhồi máu cơ tim và tai biến 
não. Ngay cả với Valdecoxib, các chuyên gia tim mạch thuộc Đại học 
Vanderbilt nhận thấy qua 7 triệu người dùng, cũng xảy ra nhiều tai biến về 
tim mạch, não, tràn dịch, màng phổi và hai chi thiếu máu do sự xuất hiện 
máu vón cục. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 72_7527.pdf 72_7527.pdf