Dược lý học : Silvirin là chế phẩm dạng kem của phức hợp sulfadiazine 
bạc. Cả hai thành phần trong phức hợp đều có hoạt tính.
Tác dụng kháng khuẩn : Sulfadiazine bạc tác dụng theo cơ chế khác với các 
hợp chất bạc khác cũng như khác với sulfadiazine đơn độc. Sau khi bôi kem thuốc 
lên bề mặt vết phỏng, thuốc giữ vai trò một kho chứa ion bạc và lập tức có tác 
dụng diệt khuẩn. Hầu hết ion bạc được gắn với protéine mô và các ion bạc tự do 
được phóng thích dần dần với nồng độ đủ độc cho vi khuẩn. Thuốc tác động lên 
vách và màng tế bào vi khuẩn làm biến đổi cấu trúc và suy yếu hẳn đi. Kết quả là 
thành tế bào biến dạng, tế bào phình to, các đại phân tử được hình thành làm tế 
bào mất khả năng sinh sống. Các biến đổi tế bào này không thấy có ở vi khuẩn vốn 
đề kháng với sulfadiazine bạc. Người ta chưa rõ thuốc có thấm sâu vào tế bào vi 
khuẩn không. Tác động kháng khuẩn của sulfadiazine bạc không bị acide paraaminobenzoique ức chế và thuốc cũng không phải là chất ức chế men carbonique 
anhydrase. Cơ chế tác dụng này giúp giải thích tại sao không thấy có hiện tượng 
kháng thuốc và không gây đột biến ở vi khuẩn nhạy với sulfadiazine bạc
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Silvirin kem bôi (kỳ 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SILVIRIN kem bôi 
(Kỳ 1) 
RAPTAKOS BRETT 
Kem bôi ngoài da : tuýp 20 g. 
THÀNH PHẦN 
cho 100 g 
Sulfadiazine bạc 
1 g 
DƯỢC LỰC 
Dược lý học : Silvirin là chế phẩm dạng kem của phức hợp sulfadiazine 
bạc. Cả hai thành phần trong phức hợp đều có hoạt tính. 
Tác dụng kháng khuẩn : Sulfadiazine bạc tác dụng theo cơ chế khác với các 
hợp chất bạc khác cũng như khác với sulfadiazine đơn độc. Sau khi bôi kem thuốc 
lên bề mặt vết phỏng, thuốc giữ vai trò một kho chứa ion bạc và lập tức có tác 
dụng diệt khuẩn. Hầu hết ion bạc được gắn với protéine mô và các ion bạc tự do 
được phóng thích dần dần với nồng độ đủ độc cho vi khuẩn. Thuốc tác động lên 
vách và màng tế bào vi khuẩn làm biến đổi cấu trúc và suy yếu hẳn đi. Kết quả là 
thành tế bào biến dạng, tế bào phình to, các đại phân tử được hình thành làm tế 
bào mất khả năng sinh sống. Các biến đổi tế bào này không thấy có ở vi khuẩn vốn 
đề kháng với sulfadiazine bạc. Người ta chưa rõ thuốc có thấm sâu vào tế bào vi 
khuẩn không. Tác động kháng khuẩn của sulfadiazine bạc không bị acide para-
aminobenzoique ức chế và thuốc cũng không phải là chất ức chế men carbonique 
anhydrase. Cơ chế tác dụng này giúp giải thích tại sao không thấy có hiện tượng 
kháng thuốc và không gây đột biến ở vi khuẩn nhạy với sulfadiazine bạc. 
Tác dụng lên vết phỏng : Thuốc làm mềm lớp mô cháy cứng (escarre), tuy 
nhiên do làm giảm tác động của vi khuẩn tại chỗ, thuốc cũng gián tiếp làm giảm 
sự tự tiêu hủy và tự tróc của mô chết này. Do đó, ở nạn nhân phỏng độ 3 nên phối 
hợp với động tác rửa và cắt lọc. Cắt lọc chỗ hoại tử cũng để tránh co rút. Thuốc 
làm giảm mức độ nặng của bệnh cũng như làm giảm tỷ lệ tử vong một cách có ý 
nghĩa. Trong điều kiện thuận lợi, với phỏng độ 2, thuốc làm lên da non trong 
khoảng 10 ngày. 
Thuốc còn có tác dụng tốt đối với vết loét mạn tính do đè cấn. 
Không có báo cáo nào về toan huyết, vì vậy thuốc có giá trị đặc biệt cho trẻ 
em phỏng. 
Vi sinh học : Sulfadiazine bạc là một chất sát khuẩn đối với nhiều loại vi 
khuẩn Gram âm lẫn Gram dương và có hiệu lực kháng nấm men. Sulfadiazine bạc 
ức chế được các vi khuẩn kháng với các thuốc kháng khuẩn khác và ưu việt hơn 
sulfadiazine đơn thuần. Sulfadiazine bạc được chứng tỏ có hiệu lực chống lại các 
vi khuẩn và vi nấm sau : 
Pseudomonas species bao gồm Pseudomonas aeruginosa, Pseudomonas 
cepacia, Pseudomonas maltophilia ; Enterobacter species bao gồm Enterobacter 
aerogenes, Enterobacter agglomerans, Enterobacter cloacae ; Herellea species ; 
Mima species ; Klebsiella species bao gồm Klebsiella pneumoniae ; Escherichia 
coli ; Serratia species bao gồm Serratia liquifaciens, Serratia marcescens, Serratia 
rubidae ; Proteus mirabilis, Proteus morganii, Proteus rettgeri, Proteus vulgaris ; 
Providencia species ; Citrobacter diversus ; Shigella species ; Acinetobacter 
anitratum ; Aeromonas hydrophilia ; Arizona hinshawii ; Alcaligenes faecalis ; 
Staphylococcus aureus, Staphylococcus epidermidis ; Staphylococcus huyết giải 
beta ; Streptococcus nhóm D (gồm cả Enterococcus) ; Bacillus species ; Candida 
species bao gồm Candida albicans ; Corynebacterium diphtheriae ; Clostridium 
perfringens. 
Lâm sàng : Thuốc đặc biệt có hiệu lực trên Pseudomonas aeruginosa. Tính 
nhạy cảm của vi khuẩn đối với sulfadiazine bạc không liên quan đến tính nhạy 
cảm của chúng đối với sulfonamide riêng rẽ và hiệu lực kháng khuẩn cao hơn là 
dùng riêng rẽ sulfadiazine. 
Thuốc cũng kháng cả Dermatophytes lẫn Herpes virus hominis. 
Sulfadiazine bạc 10 mg/ml làm bất hoạt hoàn toàn in vitro 9/10 giống virus 
varicella zoster. Thuốc cho kết quả tương tự trên bệnh nhân herpes zoster. 
Trên bệnh nhân phỏng, dùng thuốc mỗi ngày tốt hơn là 3, 4 ngày một lần. 
Hiệu lực chống vi khuẩn xâm nhập cao hơn là chống vi khuẩn đã nhiễm sẵn ở vết 
thương. Thuốc không có hiệu lực kháng khuẩn toàn thân. 
DƯỢC ĐỘNG HỌC 
Hấp thu : 
Nghiên cứu trên súc vật cho thấy hầu hết lượng thuốc tích tụ ở lớp biểu bì 
của da lành và chỉ hấp thụ nếu da bị tổn thương, trầy xướt, phỏng. Khoảng 10% 
lượng sulfadiazine bôi tại chỗ được hấp thụ. Mức hấp thụ ở vết phỏng sâu bán 
phần cao hơn ở vết phỏng sâu toàn phần do trong trường hợp sau không còn tuần 
hoàn mạch. Trong khi bạc được hấp thụ dưới 1%, thì sulfadiazine có thể được hấp 
thụ đến 10%. 
Phân phối và chuyển hóa : 
Nồng độ sulfadiazine trong huyết thanh khoảng 10-20 mg/l nếu bôi thuốc 
trên diện rộng. Sulfadiazine hấp thụ được chuyển hóa một phần tại gan. Thời gian 
bán hủy trong huyết thanh trung bình 10-12 giờ. Thể tích phân phối là 0,36 l/kg. 
Gắn với protéine huyết tương 29-45%. 
Bôi thuốc mỗi ngày lên vết phỏng 47% diện tích cơ thể, bán phần hay toàn 
phần, nồng độ bạc huyết thanh toàn phần trung bình khoảng 300 mg/l và nhiều 
gấp đôi nếu là phỏng rộng hơn 60%. Ở bệnh nhân phỏng 12% nông lẫn sâu có 
dùng kem thuốc trong 21 ngày, bạc chỉ tích tụ trong các tế bào biểu bì và tuyến mồ 
hôi. Phẫu thi 2 bệnh nhân tử vong do phỏng bán phần và toàn phần 80% và 90% 
đã được điều trị với sulfadiazine bạc với lượng lớn (12 kg/ngày) trong 3 tuần cho 
thấy không có sự tích tụ bạc ở mẫu mô sinh thiết thận. Đa số bạc được hấp thụ, 
nếu có, có thể lưu lại chủ yếu ở gan. Chưa có báo cáo nào về độc tính lâm sàng do 
bạc hấp thu tích tụ trong cơ thể. 
Bài tiết : 
Sulfadiazine được hấp thụ sẽ được bài tiết qua nước tiểu khoảng 50% ở 
nguyên dạng và khoảng 40% ở dạng chuyển hóa acétyl hóa. Sulfadiazine được bài 
tiết qua sữa mẹ ở nồng độ 15-35% so với nồng độ trong huyết thanh. Sulfadiazine 
có thể qua nhau thai. Cả hai loại bệnh gan và thận đều làm giảm sự đào thải 
sulfadiazine khỏi máu. 
Bạc được bài tiết qua nước tiểu hàng ngày trung bình 100-200 mg, đôi khi 
vượt quá 1000 mg ở nạn nhân phỏng trên 60%. Lượng tích tụ trong gan được thải 
dần qua mật. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 silvirin_kem_boi_doc_ky_1_6196.pdf silvirin_kem_boi_doc_ky_1_6196.pdf