Hệ thống tim mạch gồm có tim và hệ mạch máu, đóng vai tr ò rất quan 
trọng trong cơ thể, có tính chất sinh mạng. Đảm nhiệm các chức năng 
sau:
· Cung cấp oxy và dưỡng chất cho tổ chức, đồng thời mang các chất cần 
đào thải chuyển cho các cơ quan có trách nhiệm thải ra ngoài.
· Thông tin liên lạc bằng thể dịch: vận chuyển các hormon, các enzym 
đến các cơ quan, liên lạc giữa các cơ quan với nhau.
· Điều hòa thân nhiệt: nguồn máu nóng sưởi ấm các cơ quan và làm 
nhiệm vụ thải nhiệt cho cơ thể.
Trong các chức năng trên, nhiệm vụ cung cấp oxy, glucose cho việc 
chuyển hóa năng lượng lànhiệm vụ quan trọng nhất.
Hình 1 : Sự lưu thông máu trong cơ thể
Tế bào não thiếu năng lượng dù chỉ vài giây, đã ngừng hoạt động, nếu 
thiếu năng lượng quá 5 phút, nó sẽ tổn thương khó hồi phục.
Tim hoạt động như một máy bơm, hút và đẩy máu vào 2 vòng tuần hoàn: 
đại tuần hoàn và tiểu tuần hoàn (Hình 1). 
Vòng đại tuần hoàn (tuần hoàn hệ thống) mang máu động mạch giàu oxy 
và các chất dinh dưỡng từ tim trái theo động mạch chủ, động mạch chủ 
tiếp tục phân thành những động mạch nhỏ dần đến các cơ quan. Ở tổ 
chức, các tiểu động mạch tiếp nối với mạng mao mạch, dưỡng chất và khí 
sẽ trao đổi qua các thành mỏng của mao mạch, dưỡng chấtđược cung cấp 
cho tổ chức. Sau đó máu đã bị khử oxy vào các tiểu tĩnh mạch, được 
mang ra khỏi mô, tập trung vào những tĩnh mạch lớn, về tim phải.
Vòng tiểu tuần hoàn (tuần hoàn phổi) mang máu tĩnh mạch từ tim phải 
theo đ ộng mạch phổi lên phổi, ở mao mạchphổi, khí cacbonic được thải 
ra ngoài và máu nhận oxy để trở thành máu động mạch, theo tĩnh mạch 
phổi về tim trái, tiếp đó bắt đầu một chu trình tương tự qua vòng đại tuần 
hoàn.
Như vậy tim là động lực chính của tuần hoàn, tim hút và đẩy máu vào 
động mạch. Động mạch và tĩnh mạch dẫn máu đến tổ chức và từ tổ chức 
về tim. Mao mạch chính là nơi diễn ra quá trình trao đổi chất giữa máu và 
mô
              
                                            
                                
            
 
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1732 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Sinh lý học tim mạch ( phần a ), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh lý học động vật ( phần 31 ) 
Sinh lý học tim mạch ( phần a ) 
I. Đại cương 
Hệ thống tim mạch gồm có tim và hệ mạch máu, đóng vai trò rất quan 
trọng trong cơ thể, có tính chất sinh mạng. Đảm nhiệm các chức năng 
sau: 
· Cung cấp oxy và dưỡng chất cho tổ chức, đồng thời mang các chất cần 
đào thải chuyển cho các cơ quan có trách nhiệm thải ra ngoài. 
· Thông tin liên lạc bằng thể dịch: vận chuyển các hormon, các enzym 
đến các cơ quan, liên lạc giữa các cơ quan với nhau. 
· Điều hòa thân nhiệt: nguồn máu nóng sưởi ấm các cơ quan và làm 
nhiệm vụ thải nhiệt cho cơ thể. 
Trong các chức năng trên, nhiệm vụ cung cấp oxy, glucose cho việc 
chuyển hóa năng lượng là nhiệm vụ quan trọng nhất. 
Hình 1 : Sự lưu thông máu trong cơ thể 
Tế bào não thiếu năng lượng dù chỉ vài giây, đã ngừng hoạt động, nếu 
thiếu năng lượng quá 5 phút, nó sẽ tổn thương khó hồi phục. 
Tim hoạt động như một máy bơm, hút và đẩy máu vào 2 vòng tuần hoàn: 
đại tuần hoàn và tiểu tuần hoàn (Hình 1). 
Vòng đại tuần hoàn (tuần hoàn hệ thống) mang máu động mạch giàu oxy 
và các chất dinh dưỡng từ tim trái theo động mạch chủ, động mạch chủ 
tiếp tục phân thành những động mạch nhỏ dần đến các cơ quan. Ở tổ 
chức, các tiểu động mạch tiếp nối với mạng mao mạch, dưỡng chất và khí 
sẽ trao đổi qua các thành mỏng của mao mạch, dưỡng chất được cung cấp 
cho tổ chức. Sau đó máu đã bị khử oxy vào các tiểu tĩnh mạch, được 
mang ra khỏi mô, tập trung vào những tĩnh mạch lớn, về tim phải. 
 Vòng tiểu tuần hoàn (tuần hoàn phổi) mang máu tĩnh mạch từ tim phải 
theo động mạch phổi lên phổi, ở mao mạch phổi, khí cacbonic được thải 
ra ngoài và máu nhận oxy để trở thành máu động mạch, theo tĩnh mạch 
phổi về tim trái, tiếp đó bắt đầu một chu trình tương tự qua vòng đại tuần 
hoàn. 
Như vậy tim là động lực chính của tuần hoàn, tim hút và đẩy máu vào 
động mạch. Động mạch và tĩnh mạch dẫn máu đến tổ chức và từ tổ chức 
về tim. Mao mạch chính là nơi diễn ra quá trình trao đổi chất giữa máu và 
mô. 
II. Sinh lý tim 
1. Cấu trúc chức năng của tim 
1.1. Tim 
Tim là một khối cơ rỗng, trọng lượng khoảng 300gr, được chia thành 4 
buồng: 2 tâm nhĩ và 2 tâm thất. Nhĩ phải và nhĩ trái, thành mỏng, nhận 
máu tĩnh mạch, đưa xuống thất; thất phải và thất trái, thành dày, bơm máu 
vào động mạch với áp lực cao. Hai tâm nhĩ ngăn cách nhau bởi vách liên 
nhĩ, hai tâm thất ngăn cách nhau bởi vách lên thất. 
Độ dày của các thành tim ở các buồng thay đổi tùy theo chức năng của 
nó. Thành cơ tim thất trái dày gấp hai đến bốn lần thành thất phải, do nó 
phải bơm máu với áp lực cao hơn để thắng sức cản lớn của tuần hoàn hệ 
thống. 
Năng lượng cần thiết cho sự chuyển động của máu xuất phát từ thành cơ 
tim. 
1.2. Hệ thống van tim 
Hướng chảy của máu được xác định bởi sự hiện diện của các van tim. 
Các van tim là những lá mỏng, mềm dẽo, là tổ chức liên kết được bao 
quanh bởi nội tâm mạc. 
- Van nhĩ - thất: ngăn giữa nhĩ và thất, bên trái có van hai lá, bên phải có 
van ba lá. Nó giúp máu chảy một chiều từ nhĩ xuống thất. Các cột cơ gắn 
với van nhĩ-thất bởi các dây chằng. Cột cơ co rút khi tâm thất co, nó 
không giúp cho sự đóng của van, mà nó kéo chân van về phía tâm thất, 
ngăn sự lồi của các lá van về tâm nhĩ trong kỳ thất co rút. Nếu dây chằng 
bị đứt hoặc nếu một trong các cột cơ bị tổn thương, máu có thể trào 
ngược về tâm nhĩ khi thất co, đôi khi gây nên rối loạn chức năng tim trầm 
trọng . 
- Van bán nguyệt : giữa tâm thất trái và động mạch chủ có van động mạch 
chủ, van động mạch phổi ở giữa tâm thất phải và động mạch phổi. Nó 
giúp máu chảy một chiều từ tâm thất ra động mạch . 
Tất cả các van đóng mở một cách thụ động, sự đóng mở tùy thuộc vào sự 
chênh lệch áp suất qua van. Ví dụ như khi áp lực tâm nhĩ vượt quá áp lực 
tâm thất thì van nhĩ-thất mở ra, và máu từ nhĩ xuống thất; ngược lại khi 
áp lực tâm thất lớn hơn áp lực tâm nhĩ, van đóng lại, ngăn máu chảy 
ngược từ thất về nhĩ (Hình 2). 
Hình 2 : Cơ tim và Hệ thống van hai lá 
1.3. Sợi cơ tim 
 Tim được cấu thành bởi 3 loại cơ tim : cơ nhĩ, cơ thất và những sợi cơ có 
tính kích thích, dẫn truyền đặc biệt. Cơ nhĩ, cơ thất có hoạt động co rút 
giống cơ vân, loại còn lại co rút yếu hơn nhưng chúng có tính nhịp điệu 
và dẫn truyền nhanh các xung động trong tim (H. 2). 
Các tế bào cơ tim có tính chất trung gian giữa tế bào cơ vân và tế 
bào cơ trơn. Đó là những tế bào nhỏ, có vân, chia nhánh và chỉ một nhân. 
Khác với cơ vân, các tế bào cơ tim có các cầu nối, kết với nhau thành một 
khối vững chắc, có những đoạn màng tế bào hòa với nhau. Các sợi cơ tim 
mang tính hợp bào, hoạt động như một đơn vị duy nhất khi đáp ứng với 
kích thích, lan truyền điện thế giữa các sợi cơ tim nhanh chóng qua các 
cầu nối. Sự lan truyền điện thể từ nhĩ xuống thất được dẫn qua một đường 
dẫn truyền đặc biệt gọi là bộ nối nhĩ-thất. 
 Các sợi cơ tim chứa nhiều ty lạp thể và mạch máu, phù hợp với đặc tính 
hoạt động ái khí của tim. Thành phần chủ yếu của tế bào cơ tim là các tơ 
cơ (myofibrille), chứa các sợi dày (myosin) và sợi mỏng (actin, 
tropomyosin, troponin), sự co rút của chúng gây ra co rút toàn bộ tế bào 
cơ tim. Xung quanh các sợi cơ có mạng nội sinh cơ chất (reticulum 
sarcoplasmique) là nơi dự trữ canxi. 
Như vậy chức năng chính của cơ tim là tự co rút và chúng cũng phản ứng 
theo cùng một cách thức trong trường hợp bệnh lý : chúng cùng phì đại 
trong sự quá tải hoặc chúng hoại tử thành những mô xơ trong trường hợp 
khác. 
1.4. Hệ thống dẫn truyền 
Gồm các tế bào mãnh có khả năng phát nhịp (pacemaker) cho toàn bộ 
tim, chúng tạo thành hệ thống dẫn truyền, dẫn truyền điện thế qua cơ tim. 
Hệ thống dẫn truyền này đảm bảo cho các buồng tim co rút đồng bộ, gồm 
: 
1.4.1. Nút xoang nhĩ: còn gọi là nút Keith-Flack, nằm ở cơ tâm nhĩ, chổ 
tĩnh mạch chủ trên đổ vào tâm nhĩ phải. Nút xoang nhĩ phát xung khoảng 
80l-100l/phút, là nút dẫn nhịp cho tim, nhận sự chi phối của sợi giao cảm 
và dây phó giao cảm (dây X). 
1.4.2. Nút nhĩ-thất: còn gọi là nút Aschoff-Tawara, ở phía sau bên phải 
vách liên nhĩ, cạnh lỗ xoang tĩnh mạch vành. Phát xung 40-60l/phút, được 
chi phối bởi dây giao cảm và dây X. 
1.4.3. Bó His: đi từ nút nhĩ-thất tới vách liên thất, chạy dưới nội tâm mạc 
xuống phía phải của vách liên thất khoảng 1cm, còn gọi là bộ nối nhĩ-
thất, dẫn truyền điện thế giữa nhĩ và thất, rồi chia làm hai nhánh phải và 
trái. 
Nhánh phải tiếp tục đi xuống phía phải vách liên thất, chia thành những 
nhánh nhỏ chạy giữa các sợi cơ tim thất phải gọi là sợi Purkinje. Nhánh 
trái chui qua vách liên thất, chia một nhánh phía trước mỏng, nhỏ và một 
nhánh phía sau, dày, rồi cũng chia thành sợi Purkinje để đến nội tâm mạc 
thất trái. Bộ nối nhĩ-thất, hai nhánh hoặc các sợi Purkinje tần số phát 
xung rất chậm 20-40l/phút, chỉ nhận sợi giao cảm. 
1.5. Hệ thần kinh 
Chi phối tim là hệ thần kinh thực vật 
-Dây X phải chi phối cho nút xoang và dây X trái chi phối nút nhĩ-thất. 
Các sợi phó giao cảm đến cơ nhĩ chứ không đến cơ thất. 
-Dây giao cảm đến đáy tim theo mạch máu lớn, sau đó phân thành mạng 
vào cơ tim, thường là theo sau mạch vành. 
Thần kinh giao cảm tiết Norepinephrin, làm tăng tần số nút xoang,tăng 
tốc độ dẫn truyền, và tăng lực co bóp.Thần kinh phó giao cảm làm giảm 
tần số nút xoang, giảm tốc độ dẫn truyền qua trung gian Acetylcholin.Tác 
dụng của hai hệ này trái ngược nhau, nhưng có tác dụng điều hòa để đảm 
bảo cho sự hoạt đông tim. 
2. Các đặc tính sinh lý của cơ tim 
2.1. Tính hưng phấn 
Tính hưng phấn là khả năng phát sinh điện thế hoạt động gây co cơ tim. 
Tim gồm hai loại tế bào cơ: 
-Những tế bào phát sinh và dẫn truyền xung động, đó là các tế bào nút 
xoang, nút nhĩ thất và của mạng Purkinje. 
-Những tế bào trả lời các xung động này bởi sự co rút, đó là các tế bào cơ 
nhĩ và cơ thất. 
Những đặc tính này khiến tim mang tính tự động. Đây là đặc điểm không 
có ở cơ vân. 
Các hoạt động điện trong tim dẫn đến sự co bóp. Do đó, những rối loạn 
hoạt động điện sẽ đưa đến rối loạn nhịp với biểu hiện từ nhẹ đến nặng 
trên lâm sàng. 
2.1.1. Các pha của hoạt động điện thế cơ tim 
Ở trạng thái nghỉ, cả hai loại sợi cơ tim cũng như các tế bào sống khác, 
đều ở tình trạng phân cực, nghĩa là có một hiệu số điện thế giữa trong và 
ngoài màng tế bào. Điện thế bên trong âm tính so với ngoài đo được từ -
70mV đến -90mV, có khi lên đến -90mV đến -100mV ở loại sợi dẫn 
truyền đặc biệt như sợi Purkinje, được gọi là điện thế màng lúc nghỉ 
Điện thế này bắt nguồn từ sự chênh lêch nồng độ của 3 ion chính là Na+, 
Ca+và chủ yếu là K+. Nồng độ K+ trong tế bào cơ tim rất lớn, gấp 30 lần 
so với nồng độ K+ ngoài tế bào. 
Điện thế màng tế bào cơ tim khi nghỉ ngơi có tính thấm tương đối với K+, 
K+ có khuynh hướng khuếch tán ra ngoài theo bậc thang nồng độ. Các 
anion (A-) trong tế bào không khuếch tán ra ngoài với K+. Sự thiếu các 
cation làm điện thế trong màng âm so với bên ngoài. Điện thế hoạt động 
của tế bào cơ tim gồm các pha như sau : 
-Pha 0-1 : khi có kích thích, màng tế bào bị khử cực, tính thấm của màng 
thay đổi, màng tăng tính thấm đối với Na+, kênh Na+ mở ra nhanh chóng 
và Na+ thâm nhập vào trong tế bào, điện thế trong màng hạ nhanh tới 
0mV và trở nên dương tính +20mV. Điện thế hoạt động vẽ một đường 
gần như thẳng đứng, gọi là pha khử cực nhanh, tương ứng với sóng R của 
điện tâm đồ (ECG). 
-Pha 2: pha bình nguyên của điện thế hoạt động, tính thấm của màng đối 
với ion kali giảm, trong khi đó tính thấm đối với Natri-Canxi tăng, kênh 
Ca++ chậm được mở ở màng tế bào và màng lưới sinh cơ chất, những ion 
này đi vào bào tương, một ít Na+ cũng vào theo, và điện thế hoạt động 
biểu hiện dạng bình nguyên (plateau). 
-Pha 3: tái cực nhanh trở lại, tính thấm của màng đối với Ca+ giảm, kênh 
K+ mở ra, màng tăng tính thấm trở lại đối với K+, K+ thoát ra ngoài tế bào 
nhiều hơn, làm cho điện thế trong màng âm hơn. 
-Pha 4: phân cực, ở đầu giai đoạn này, Na+ được vận chuyển ra ngoài và 
K+ đi vào trong tế bào nhờ bơm Na+K+ATPase, với sự có mặt của Mg++. 
Điện thế màng trở lại trị số lúc ban đầu (hình 3). 
Ở các tế bào cơ nhĩ và thất, không có hoạt động tự phát, pha 4 sẽ kéo dài, 
cho đến khi có một kích thích nào đó từ tế bào lân cận, điện thế màng sẽ 
dần dần tiến đến ngưỡng và bắt đầu một điện thế hoạt động với các pha 
như trên. 
Nhưng ở loại tế bào đặc biệt của hệ thống dẫn truyền, sẽ không chờ kích 
thích bên ngoài một cách thụ động, mà ngay trong trạng thái nghỉ ngơi, 
cũng tìm cách tự khử cực lấy. Ở pha 4, có sự giảm từ từ tính thấm cuả 
màng đối với K+, tăng tính thấm đối với Na+ làm tăng điện thế qua màng, 
điện thế trong màng dần hạ xuống, đưa đường cong lên gần đường đẵng 
điện hơn : đó là sự khử cực chậm tâm trương, đặc trưng cho tế bào tự 
động. Thuộc tính này khiến chúng có thể tự mình phát ra những xung 
động nhịp nhàng theo một tần số nhất định. Vì vậy người ta gọi tim có 
tính tự động. Đặc tính này hoàn toàn độc lập với hệ thần kinh, dù cắt bỏ 
hết các nhánh thần kinh như trong ghép tim, tim vẫn đập một cách tự 
động. 
Giai đoạn này nhanh nhất nút xoang, tiếp là nút nhĩ-thất và chậm nhất ở 
sợi Purkinje, biểu hiện khả năng phát xung động riêng lẽ ở mỗi loại tế bào 
đặc biệt này. 
Hình 3 : Hoạt động điện thế của sợi cơ thất 
Do tính hợp bào của cơ tim, nên tim hoạt động theo qui luật ''tất cả hoặc 
không". Sự kích thích một sợi cơ nhĩ nào đó, sẽ gây một hoạt động điện 
qua khối cơ nhĩ, tương tự như vậy đối với cơ thất. Nếu bộ nối nhĩ-thất 
hoạt động tốt, điện thế sẽ truyền từ nhĩ xuống thất. Khi tác nhân kích 
thích đủ mạnh đưa điện thế trong màng tới ngưỡng, cơ tim co bóp ngay 
tới mức tối đa. Dưới ngưỡng đó cơ tim không phản ứng gì, tim cũng 
không co bóp mạnh hơn được. 
2.1.2. Tác động của hệ thần kinh thực vật lên các tế bào phát nhịp 
-Hệ phó giao cảm kéo dài thời gian điện thế hoạt động, làm điện thế 
màng lúc nghỉ âm hơn, vì vậy làm giảm tính kích thích tế bào. 
Acetylcholin làm tăng tính thấm của màng cơ tim đối với K+ do đó kéo 
dài sự khử cực chậm tâm trương. 
Những lý do trên làm giảm tần số tế bào phát nhịp, gây chậm nhịp tim. 
-Ngược lại, hệ giao cảm làm giảm tính kích thích của tế bào và tăng tốc 
độ khử cực chậm tâm trương, do đó làm tăng nhịp tim. 
2.2. Tính trơ có chu kỳ của cơ tim 
Ở các pha khác nhau của điện thế hoạt động, sợi cơ tim đáp ứng không 
giống nhau với một kích thích bên ngoài. 
Ở pha 1 và 2, sợi cơ đã được khử cực rồi nên không đáp ứng với bất cứ 
kích thích nào, đó là thời kỳ trơ tuyệt đối (0.25-0.3s ở cơ thất). Nó giúp 
tim không bị rối loạn hoạt động bởi một kích thích ngoại lai. Đây là cơ 
chế bảo vệ vô cùng cần thiết, giúp cho cơ tim không bị co cứng như cơ 
vân, một sự co cứng của tim sẽ dẫn đến ngừng tuần hoàn và tử vong. 
Ở pha 3, khi điện thế trong màng tăng lên đến -50mV, sợi cơ tim bắt đầu 
đáp ứng với các kích thích, tuy còn yếu, đó là thời kỳ trơ tương đối (0.05s 
ở cơ thất). Đến cuối pha 3, sợi cơ tim đi vào thời kỳ siêu bình thường, 
nghĩa là đáp ứng rất dễ dàng với một kích thích dù nhỏ. Thời kỳ này rất 
ngắn (hình 4). 
Các thời kỳ trơ của cơ nhĩ đều ngắn hơn cơ thất, vì vậy, tốc độ co rút của 
tâm nhĩ nhanh hơn tâm thất .Sự nắm vững các thời kỳ trơ của sợi sơ tim, 
giúp ích rất nhiều trong tìm hiểu và điều trị các rối loạn nhịp. 
Hình 4: Điện thế hoạt động của tế bào cơ tim và các thời kỳ trơ 
2.3. Tính dẫn truyền của cơ tim 
Thuộc tính này có ở tất cả hai loại sợi cơ tim. Điện thế động lan truyền 
dọc sợi cơ tạo thành một làn sóng khử cực. Sóng này có thể so sánh với 
sóng mà chúng ta quan sát được khi ném một hòn đá xuống nước. 
 Vận tốc dẫn truyền xung động khác nhau ở các vùng của tim. Ở trạng 
thái sinh lý, xung động từ nút xoang vào cơ nhĩ với vận tốc vừa phải, 0,8-
1m/s. Dẫn truyền chậm lại 0,03-0,05m/s từ tâm nhĩ qua nút nhĩ-thất, điện 
thế hoạt động rất chậm ở nút nhĩ-thất, do gồm các sợi có đường kính rất 
nhỏ. Sau đó, vận tốc tăng trong bó His (0,8-2m/s) và đạt rất cao trong 
mạng Purkinje: 5m/s. Cuối cùng chậm lại khi đi vào các sợi cơ thất, với 
vận tốc 0,3-0,5m/s. 
Hình 5 : Hệ thống dẫn truyền và điện thế hoạt đồng từng vị trí trong tim 
Như vậy, sự dẫn truyền xung động từ nút xoang phải mất 0,15s để bắt đầu 
khử cực các tâm thất (Hình 5) 
2.4. Tính nhịp điệu của cơ tim 
Tính nhịp điệu là khả năng kế tiếp phát xung làm tim co giãn nhịp điệu 
đều đặn. Xung động bình thường phát sinh từ nút xoang với tần số trung 
bình 80l/phút. Tiếp đó, hai tâm nhĩ khử cực đầu tiên, nhĩ phải trước nhĩ 
trái, đồng thời lan tới nút nhĩ-thất theo những bó liên nút. Sự dẫn truyền 
trong nút nhĩ-thất chậm hẵn lại để cho hai nhĩ có thời gian co bóp xong. 
Sự trì hoãn này có thể bị rút ngắn bởi sự kích thích của hệ giao cảm và 
kéo dài bởi dây X. 
Xung động tiếp tục theo hai nhánh của bó His vào sợi Purkinje với vận 
tốc lớn, do đó nhứng sợi cơ thất được khử cực trong vòng 0,08-0,1s (thời 
gian của sóng QRS trên ECG). Mỏm tim được khử cực trước đáy tim, do 
đó nó co bóp trước đáy tim, giúp dồn máu từ mõm lên phía đáy và tống 
máu vào các động mạch. 
Nút xoang phát xung động với tần số cao nhất, còn gọi là nút tạo nhịp của 
tim, nó luôn giữ vai trò chủ nhịp chính cho toàn bộ quả tim. Các chất dẫn 
truyền thần kinh hoặc các hormon, có thể làm tăng hoặc chậm nhịp tim từ 
nút xoang. Chẳng hạn như, ở một người lúc nghỉ ngơi, acetylcholin của 
hệ phó giao cảm khiến nhịp tim đập khoảng 75lần/phút. 
Trong những trường hợp bệnh lý, nút nhĩ-thất hoặc cơ nhĩ, cơ thất cũng 
có thể tạo nhịp, giành lấy vai trò của nút xoang, đứng ra chỉ huy nhịp đập 
của tim và được gọi là ổ ngoại vị (ectopic focus), những tác nhân gây ra 
tình trạng này bao gồm càphê, nicotin, mất cân bằng điện giải, thiếu oxy 
và do tác dụng phụ của thuốc, chẳng hạn digitalis. 
Như vậy, sự xuất hiện các ổ ngoại vị khiến nhịp tim chậm và có khi máu 
sẽ không đủ cho não. Ở những bệnh nhân như vậy, khi cần thiết, có thể 
duy trì tần số tim bình thường bằng một máy tạo nhịp nhân tạo (artificial 
pacemaker). Ngoài ra, còn có những máy tạo nhịp theo yêu cầu, không 
những cho hoạt động bình thường của tim, mà còn giúp tim thích nghi 
bằng cách tăng tần số lúc vận cơ hay stress. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 sinh_hoc_58_5499.pdf sinh_hoc_58_5499.pdf