Mạch máu là một hệ thống kín, dẫn 
máu từ tim đến tổ chức và trở về lại 
tim.
Tim trái tống máu vào động mạch 
chủ, tạo ra một áp lực lớn đưa máu 
qua vòng tuần hoàn cho đến tim 
phải : áp lực cao nhất trong động 
mạch chủ và thấp nhất trong tâm 
nhĩ phải. Như vậy áp lực càng xa 
tim càng giảm. Tim phải tống máu 
lên tuần hoàn phổi, sức cản dòng 
chảy của vòng tuần hoàn này yếu 
hơn nhiều so với tuần hoàn hệ 
thống, do đó áp lực tống máu sẽ 
yếu hơn tim trái.
Áp lực máu tùy thuộc thể tích máu 
toàn bộ trong hệ tim mạch. Thể tích 
máu bình thường ở một người 
trưởng thành khoảng 5lít, trongđó 
phần lớn (60%) được chứa trong hệ 
tĩnh mạch và tiểu tĩnh mạch. Khi 
thể tích máu giảm trên 10%, áp lực 
máu giảm và sự tăng thể tích máu 
như tình trạng ứ nước, làm tăng áp 
lực máu (Hình 9).
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Sinh lý học tim mạch (sinh lý hệ mạch-1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh lý học tim mạch 
(sinh lý hệ mạch-1) 
III. Sinh lý hệ mạch 
1. Đại cương 
Mạch máu là một hệ thống kín, dẫn 
máu từ tim đến tổ chức và trở về lại 
tim. 
Tim trái tống máu vào động mạch 
chủ, tạo ra một áp lực lớn đưa máu 
qua vòng tuần hoàn cho đến tim 
phải : áp lực cao nhất trong động 
mạch chủ và thấp nhất trong tâm 
nhĩ phải. Như vậy áp lực càng xa 
tim càng giảm. Tim phải tống máu 
lên tuần hoàn phổi, sức cản dòng 
chảy của vòng tuần hoàn này yếu 
hơn nhiều so với tuần hoàn hệ 
thống, do đó áp lực tống máu sẽ 
yếu hơn tim trái. 
Áp lực máu tùy thuộc thể tích máu 
toàn bộ trong hệ tim mạch. Thể tích 
máu bình thường ở một người 
trưởng thành khoảng 5lít, trong đó 
phần lớn (60%) được chứa trong hệ 
tĩnh mạch và tiểu tĩnh mạch. Khi 
thể tích máu giảm trên 10%, áp lực 
máu giảm và sự tăng thể tích máu 
như tình trạng ứ nước, làm tăng áp 
lực máu (Hình 9). 
Tốc độ trung bình của máu thay đổi 
tỉ lệ nghịch với thiết diênû ngang 
của mạch máu, cao trong động 
mạch chủ, giảm dần ở các mạch 
máu nhỏ và thấp nhất trong mao 
mạch, là nơi mà diện cắt ngang 
toàn bộ 1000 lần hơn so với động 
mạch chủ (Hình 9). Về mặt chức 
năng, vòng đại tuần hoàn, hay tuần 
hoàn hệ thống được chia như sau : 
-Hệ phân bổ, gồm động mạch chủ 
và những động mạch khác, chứa ít 
máu, áp lực lớn. 
-Hệ tiểu động mạch, ở đó phần 
lớn năng lượng sinh ra do áp lực 
động mạch bị triệt tiêu. 
-Hệ trao đổi, mạng mao mạch với 
diện rộng, trao đổi chất với dịch 
ngoại bào. 
-Hệ dự trữ, các tĩnh mạch, tĩnh 
mạch chủ và nhĩ phải, chứa lượng 
máu lớn, với áp lực thấp . 
 Hình 9 : Đường biễu diễn thay đổi 
áp lực máu trong hệ mạch 
Vận tốc máu và thiết đồ cắt ngang 
trong hệ mạch 
2. Hệ động mạch 
Động mạch có chức năng đưa máu 
từ tim đến các mao mạch toàn cơ 
thể. Động mạch chủ rời tim và 
phân thành những động mạch nhỏ 
hơn đến các vùng khác nhau của cơ 
thể. Các động mạch này lại phân 
thành những động mạch nhỏ hơn 
nữa, gọi là tiểu động mạch. Các 
tiểu động mạch đến mô, điều hòa 
phân phối máu vào mao mạch phù 
hợp với nhu cầu tổ chức. 
2.1. Đặc điểm cấu trúc chức năng 
Thành động mạch có 3 lớp : 
 -lớp trong là lớp tế bào nội mạc, 
tiếp xúc với máu, tiếp đến là lớp cơ 
bản và lớp mô đàn hồi, gọi là lớp 
đàn hồi trong. Lớp tế bào nội mạc 
lót liên tục mặt trong của hệ tim 
mạch (tim và tất cả các mạch máu). 
-lớp giữa là lớp dày nhất, chứa các 
tế bào cơ trơn và các sợi đàn hồi. 
Cơ trơn được chi phối bởi hệ giao 
cảm làm thay đổi đường kính mạch 
máu. 
-lớp ngoài chủ yếu là những sợi 
collagen và sợi đàn hồi, ở động 
mạch vừa, một lớp đàn hồi ngoài 
ngăn giữa lớp ngoài và lớp giữa. 
Lớp ngoài nâng đỡ và bảo vệ mạch 
máu. Ởí động mạch lớn có mạch 
máu nuôi động mạch. 
Lớp giữa quyết định tính chất của 
động mạch, tùy theo tỉ lệ giữa sợi 
đàn hồi và tế bào cơ trơn. Các động 
mạch lớn như động mạch chủ, động 
mạch cảnh chung... thành mỏng, 
chứa nhiều sợi đàn hồi và ít cơ 
trơn, sự giãn của các sợi đàn hồi có 
khả năng dự trữ năng lượng, giúp 
máu chảy liên tục. Các động mạch 
vừa như động mạch phân đến cơ 
quan, thành dày hơn, chứa nhiều cơ 
trơn và ít sợi đàn hồi, do đó chúng 
có khả năng co hoặc giãn rất lớn để 
điều chỉnh lưu lượng máu đến cơ 
quan tùy theo nhu cầu. 
2.2. Đặc tính sinh lý của động 
mạch 
2.2.1. Tính đàn hồi 
Đàn hồi là sự trở lại trạng thái ban 
đầu khi có một lực làm thay đổi, 
biến dạng ( dây cao su, lò xo...) 
Thí nghiệm Marey: Dùng một bình 
nước treo ở một độ cao, nối vào 
một ống cao su rồi chia thành 2 
nhánh: một nhánh nối vào ống thủy 
tinh, nhánh kia nối vào ống cao su, 
cho chảy vào 2 lọ. 
Hình 10 : Tính đàn hồi giúp máu 
chảy liên tục 
Dùng một kẹp, kẹp nhịp nhàng vào 
ống cao su ở gốc, trước khi chia 
nhánh, thấy nước chảy từ ống cao 
su ra liên tục và nhiều hơn, còn từ 
ống thủy tinh thì đứt quãng và ít 
hơn. Điều đó có thể giải thích là 
ống cao su có tính đàn hồi, nhờ vậy 
mà nước chảy liên tục và nhiều 
hơn. 
Tính đàn hồi của mạch máu cũng 
có thể giải thích như vậy: tim đập 
ngắt quãng, nhưng máu vẫn chảy 
liên tục. Trong thời kỳ tâm thu, 
máu được tống vào động mạch làm 
cho nó giãn ra, lúc này nó nhận 
được một thế năng. Trong thời kỳ 
tâm trương, nó trở lại trạng thái ban 
đầu, trả lại thế năng đó và tiếp tục 
đẩy máu đi, làm cho máu chảy liên 
tục (Hình 10). 
2.2.2. Tính co thắt 
Lớp cơ trơn của thành mạch được 
chi phối bởi thần kinh, có thể chủ 
động thay đổi đường kính, nhất là ở 
các tiểu động mạch. Đặc tính này 
khiến lượng máu được phân phối 
đến cơ quan tùy theo nhu cầu, lúc 
hoạt động hay khi nghỉ ngơi. 
2.3. Huyết áp động mạch 
Huyết áp (HA) là áp suất máu 
trong động mạch. Máu chảy được 
trong động mạch là kết quả của hai 
lực đối lập, lực đẩy máu của tim và 
lực cản của thành động mạch, trong 
đó lực đẩy máu của tim thắng nên 
máu chảy được trong động mạch 
với một tốc độ và áp suất nhất định. 
2.3.1. Huyết áp tâm thu: còn gọi là 
huyết áp tối đa, thể hiện khả năng 
co bóp của tim, là giới hạn cao nhất 
của những dao động có chu kỳ của 
huyết áp trong mạch. Huyết áp tối 
đa thay đổi tùy tuổi, thường từ 90-
140mmHg. 
2.3.2. Huyết áp tâm trương: còn 
gọi là huyết áp tối thiểu, thể hiện 
sức cản của thành mạch, là giới hạn 
thấp nhất của những dao động có 
chu kỳ của huyết áp trong mạch. 
Huyết áp tối thiểu thay đổi từ 50-
90mmHg. 
2.3.3. Huyết áp trung bình: còn 
gọi là huyết áp hữu hiệu, là trung 
bình của tất cả áp suất máu được đo 
trong một chu kỳ thời gian, nó thể 
hiện sức làm việc thực sự của tim. 
Huyết áp trung bình gần với huyết 
áp tâm trương hơn huyết áp tâm thu 
trong chu kỳ hoạt động của tim. 
 HA trung bình = HA tâm trương + 
1/3 HA hiệu số 
2.3.4. Hiệu áp: là khoãng chênh 
lệch giữa huyết áp tối đa và huyết 
áp tối thiểu, là điều kiện cần cho 
tuần hoàn máu. Bình thường 
khoảng 50mmHg. Hiệu áp tùy 
thuộc lực bóp của tim và sức cản 
của mạch máu từ tim đến mao 
mạch. Hiệu áp còn gọi là áp lực 
mạch (pulse pressure). Áp lực 
mạch ở người ít có nguy cơ biến cố 
tim mạch là ( 50 mmHg. Khi áp lực 
mạch tăng, đặc biệt do giảm huyết 
áp tâm trương, làm giảm áp lực 
tưới máu động mạch vành, do đó 
làm gia tăng biến cố mạch vành ở 
những bệnh nhân vốn đã có bệnh lý 
mạch vành. 
Huyết áp động mạch giảm ít từ 
động mạch lớn sang động mạch 
vừa vì kháng lực nhỏ, nhưng giảm 
nhanh trong các động mạch nhỏ và 
tiểu động mạch, do kháng lực cao 
nhất của chúng đối với dòng máu 
qua hệ động mạch. Vì vậy các động 
mạch nhỏ, đặc biệt là các tiểu động 
mạch được gọi là mạch máu cản 
của hệ tuần hoàn, những thay đổi 
nhỏ trong khẩu kính của chúng có 
thể gây thay đổi lớn trong sức cản 
ngoại vi toàn bộ. 
Huyết áp trung bình ở cuối tiểu 
động mạch là 30-35mmHg. Hiệu áp 
chỉ còn 5mmHg. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 sinh_ly_hoc_tim_mac6_8.PDF sinh_ly_hoc_tim_mac6_8.PDF