Động mạch vành xuất phát từ động 
mạch chủ, ngay trên van bán 
nguyệt. Động mạch vành đến tim, 
chia thành động mạch vành phải và 
trái. Động mạch vành trái cung cấp 
máu cho vùng trước thất trái và nhĩ 
trái. Động mạch vành phải cung 
cấp máu cho hầu hết thất phải, nhĩ 
phải và phần sau thất trái. Các động 
mạch lớn nằm ở bề mặt của tim, 
các động mạch nhỏ đi sâu vào khối 
cơ tim, từ đó chia nhánh nhỏ hơn, 
thành mao mạch chạy quanh sợi cơ 
tim. Có nhiều mạch nối giữa các 
nhánh của một động mạch vành 
hoặc giữa các nhánh của nhiều 
động mạch vành. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Sinh lý học tim mạch (Tuần hoàn địa phương), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh lý học tim mạch 
(Tuần hoàn địa phương) 
IV. Tuần hoàn địa phương 
1. Tuần hoàn mạch vành 
Tuần hoàn mạch vành là tuần hoàn 
nuôi dưỡng tim. 
1.1. Đặc điểm giải phẫu chức 
năng 
Động mạch vành xuất phát từ động 
mạch chủ, ngay trên van bán 
nguyệt. Động mạch vành đến tim, 
chia thành động mạch vành phải và 
trái. Động mạch vành trái cung cấp 
máu cho vùng trước thất trái và nhĩ 
trái. Động mạch vành phải cung 
cấp máu cho hầu hết thất phải, nhĩ 
phải và phần sau thất trái. Các động 
mạch lớn nằm ở bề mặt của tim, 
các động mạch nhỏ đi sâu vào khối 
cơ tim, từ đó chia nhánh nhỏ hơn, 
thành mao mạch chạy quanh sợi cơ 
tim. Có nhiều mạch nối giữa các 
nhánh của một động mạch vành 
hoặc giữa các nhánh của nhiều 
động mạch vành. 
Máu qua tuần hoàn vành, cung cấp 
oxy và dưỡng chất, sau đó lấy 
carbonic và chất thải đi vào tĩnh 
mạch vành. Phần lớn máu tĩnh 
mạch từ thất trái đổ vào xoang vành 
và máu từ thất phải qua tĩnh mạch 
tim trước, đổ trực tiếp vào nhĩ phải. 
Một lượng nhỏ máu đổ trực tiếp 
vào buồìng tim qua các tĩnh mạch 
Thebesian. Máu cũng có thể đổ trực 
tiếp từ tiểu động mạch vành vào 
buồng tim (Hình 13). 
Hình 13: Động mạch vành và các 
nhánh 
1.2. Động lực máu trong tuần 
hoàn vành 
Máu chảy trong động mạch từ nơi 
áp lực cao là động mạch chủ đến 
nơi áp lực thấp là tâm nhĩ phải. Tuy 
nhiên, tim là khối cơ rỗng nên sự 
co bóp của nó ép lên các mạch máu 
làm thay đổi tốc độ và lưu lượng, 
một cách nhịp nhàng. 
Vào đầu kỳ tâm thu, áp lực máu 
tăng đột ngột, tốc độ máu cũng 
tăng; tiếp theo, khi tâm thất co bóp, 
áp lực vẫn cao nhưng tốc độ lại 
giảm. Do cơ tim khi co, ép vào các 
mạch máu trong khối cơ tim làm 
hẹp động mạch lại nên áp suất tăng 
mà tốc độ chậm. 
Đến giai đoạn tâm trương, cơ tim 
giãn, mạch vành giãn ra, áp suất 
giảm, tốc độ lại tăng, máu trong 
mạch vành chảy dễ dàng.Như vậy, 
tuần hoàn vành nhanh và nhiều 
trong kỳ tâm trương, chậm và ít đi 
trong kỳ tâm thu. 
Lưu lượng mạch vành lúc nghỉ 
ngơi khoảng 255ml/phút, chiếm 4-
5% lưu lượng tim. Lúc vận cơ, lưu 
lượng tim tăng gấp 4-6 lần, công 
của tim tăng gấp 6-8 lần, lưu lượng 
mạch vành cũng tăng gấp 4-5 lần 
để cung cấp dưỡng chất cho tim. 
Như vậy, lưu lượng vành tăng 
không tương xứng với sự tăng công 
của tim, do đó tim phải tăng hiệu 
suất sử dụng năng lượng để giảm 
thiểu sự thiếu cung cấp máu trong 
vận cơ. 
Lưu lượng vành cũng thay đổi theo 
chu kỳ hoạt động của tim. Trong kỳ 
tâm thu, lưu lượng vành giảm, do 
cơ thất trái ép mạnh vào mạch máu 
trong cơ khi co bóp. Trong kỳ tâm 
trương, cơ tim giãn hoàn toàn, máu 
chảy dễ dàng và nhanh. 
1.3. Điều hòa tuần hoàn vành 
1.3.1. Yếu tố thể dịch 
Dòng máu qua tuần hoàn vành 
được điều hòa bởi nhu cầu tại chỗ 
về dinh dưỡng của cơ tim. Nhu cầu 
oxy là yếu tố chủ yếu trong điều 
hòa tuần hoàn vành. Sự giảm nồng 
độ oxy trong tim khiến tế bào cơ 
tim phóng thích các chất giãn mạch 
và gây giãn các tiểu động mạch làm 
cho máu đến tim nhiều hơn. Chất 
quan trọng nhất là adenosin và một 
số chất khác như K+, H+, carbonic, 
bradykinin, prostaglandin. 
1.3.2. Yếu tố thần kinh 
Sự kích thích thần kinh thực vật 
đến tim ảnh hưởng lưu lượng vành 
theo hai cách trực tiếp và gián tiếp. 
Tác dụng trực tiếp do sự tác động 
của chất dẫn truyền thần kinh như 
acetylcholin và norepinephrin lên 
mạch vành. Gián tiếp do sự thay 
đổi thứ phát lưu lượng vành tùy 
theo tăng hay giảm lưu lượng tim. 
Sự kích thích giao cảm làm tăng tốc 
độ và sự co rút tim cũng như tốc độ 
chuyển hóa. Sự tăng hoạt động tim 
khiến nồng độ oxy cơ tim giảm và 
làm giãn mạch vành. Ngược lại, sự 
kích thích phó giao cảm làm chậm 
nhịp tim, tim giảm hoạt động, do 
đó giảm tiêu thụ oxy cơ tim, có tác 
dụng co mạch vành. 
Chất dẫn truyền thần kinh giao cảm 
có thể gây co hoặc giãn mạch tùy 
thuộc vào sự hiện diện hay không 
của những receptor đặc hiệu trên 
thành mạch máu. Receptor gây co 
mạch là a receptor, gây giãn mạch 
là b receptor. Cả hai loại này đều 
có ở mạch vành, areceptor chủ yếu 
ở các mạch máu sát ngoại tâm 
mạc, b receptor chủ yếu ở các động 
mạch trong cơ tim. Vì vậy kích 
thích giao cảm có thể gây co hoặc 
giãn vành. 
Tóm lại những yếu tố chuyển hóa, 
đặc biệt là sự tiêu thụ oxy đóng vai 
trò chính trong điều hòa lưu lượng 
vành. Do đó, khi kích thích thần 
kinh làm thay đổi lưu lượng vành 
thì những yếu tố chuyển hóa sẽ đưa 
lưu lượng về mức bình thường. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 sinh_ly_hoc_tim_mac9_6.PDF sinh_ly_hoc_tim_mac9_6.PDF