Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 277
SO SÁNH NỒNG ĐỘ MANNOSE-BINDING LECTIN 2 (MBL 2) 
Ở NHÓM BỆNH THẬN IgA CÓ VÀ KHÔNG TIẾN TRIỂN SUY THẬN NẶNG 
Vương Tuyết Mai* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu: so sánh nồng độ mannose-binding lectin 2 
(MBL2) ở nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có và không có tiến triển suy thận nặng. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện ở viện Karolinska, Thụy Điển. Nghiên cứu tiến 
hành ở 39 mẫu huyết thanh của bệnh nhân bệnh thận IgA (17 bệnh nhân có biểu hiện tiến triển nặng và 22 bệnh 
nhân ổn định, không có dấu hiệu tiến triển) và 39 người khoẻ mạnh phù hợp với nhóm bệnh về giới và tuổi. Kỹ 
thuật ELISA (Antibodyshop, DK-2820 Gentofte, Đan Mạch) được sử dụng trong nghiên cứu này. 
Kết quả: Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Mann-Whitney Test) trong các nồng 
độ của MBL2 giữa nhóm có sự tiến triển gây nặng bệnh và nhóm không suy thận. Khi phân tích nồng MBL2 ở 
các mức độ khác nhau chúng tôi cũng không phát hiện thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh thận 
IgA có tiến triển suy thận nặng và nhóm có chức năng thận ổn định ở giới hạn bình thường. 
Kết luận: Chúng tôi kết luận rằng trong các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ MBL2 huyết 
thanh không có liên quan với yếu tố tiên lượng nặng cho sự tiến triển bệnh ở bệnh thận IgA. 
Từ khoá: MBL2, bệnh thận IgA. 
ABSTRACT 
THE CONCENTRATION OF MANNOSE-BINDING LECTIN 2 (MBL2) IN COMPARISON BETWEEN 
IGA NEPHROPATHY PATIENTS WITH PROGRESSION AND NON-PROGRESSION 
Vuong Tuyet Mai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 277 - 282 
Background: We conducted this study with the aim: to compare the concentration of MBL2 between IgA 
nephropathy patients with progression and non-progression. 
Patients and methods: This study was performed in Karolinska Institutet, Sweden. We analysed 39 serum 
samples from patients with IgA nephropathy (17 patients with progression and 22 in the non-progression group) 
and 39 healthy controls by ELISA technique (Antibodyshop, DK-2820 Gentofte, Denmark). 
Results: We did not find a difference (Mann-Whitney Test) in MBL levels between IgA nephropathy 
patients with and without progression. By using categorical analysis with different thresholds for MBL2, no 
difference between groups was detected. 
Conclusions: In our own data, we concluded that the concentration of MBL2 did not associate with severity 
of IgA nephropathy. 
Keywords: MBL2, IgA nephropathy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mannose-binding lectin 2 (MBL2) là một 
protein huyết thanh được sản xuất từ gan, là một 
phân tử quan trọng trong hệ thống miễn dịch. 
Cấu trúc của MBL2 gồm 3 đoạn polypeptide 
giống hệt nhau với trọng lượng phân tử khoảng 
32 kD (228 axit amin), sự kết hợp với 2-3 trimer 
để tạo ra một cấu trúc giống như bó hoa tương 
tự cấu trúc của bổ thể C1q và cũng có vai trò như 
là một thụ thể nhận dạng trong hệ thống bổ thể. 
* Bộ môn Nội, Đại học Y Hà Nội, Khoa Thận-Tiết Niệu, Bệnh viện Bạch Mai 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Vương Tuyết Mai ĐT: 0915518775. Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 278
Cấu trúc của MBL2 cho phép phân tử này liên 
kết với các vi sinh vật khác nhau bao gồm cả vi 
khuẩn Gram dương và âm, Mycobacterium, 
virus và nấm. Sự gắn kết của MBL2 dẫn đến 
ngưng kết các vi sinh vật và kích hoạt giải phóng 
thực bào, ngoài ra còn MBL kích hoạt bổ thể 
thông qua con đường lectin. Chính vì vậy MBL2 
là một trong những yếu tố rất quan trọng trong 
bảo vệ vật chủ, đặc biệt ở giai đoạn vừa mới bắt 
đầu khi quá trình đáp ứng miễn dịch còn chưa 
hình thành đầy đủ. Giả thuyết đặt ra rằng ở 
những cá nhân có sự bất thường của MBL2 có 
thể có nguy cơ cao hơn khi bị nhiễm các vi sinh 
vật với những bất thường tiếp theo của đáp ứng 
của hệ thống miễn dịch(1). 
Bệnh thận IgA là một trong những tổn 
thương cầu thận phổ biết nhất trong nhóm bệnh 
cầu thận mà đặc trưng là sự lắng đọng của IgA 
tại gian mạch cầu thận. Sự lắng đọng IgA tại 
gian mạch cầu thận gây ra một quá trình viêm 
ngay tại gian mạch, cầu thận, khoảng kẽ gây tình 
trạng thoát protein niệu ra nước tiểu. Quá trình 
tiến triển âm thầm theo thời gian dẫn đến tình 
trạng xơ cứng cầu thận và khoảng 1/3 số bệnh 
nhân có thể tiến triển đến bệnh thận giai đoạn 
cuối. Nhiều cơ chế được có khả năng tham gia 
vào việc gây viêm và tổn thương thận trong đó 
đặc biệt là sự tương tác trực tiếp giữa IgA và tế 
bào gian mạch từ đó kích hoạt bổ thể, chính vì 
vậy mà một tỷ lệ lắng đọng đồng thời thường 
xuyên nhất với IgA là bổ thể C3. Hiện tại, cơ chế 
kích hoạt bổ thể trong tổn thương thận ở bệnh 
thận IgAN chưa được hoàn thiện. Một số nghiên 
cứu cho thấy sự lắng đọng bổ thể C4 cũng như 
như lưu hành C4 trong huyết thanh làm kích 
hoạt phản ứng viêm tại cầu thận của bệnh nhân 
bệnh thận IgA. Do các nghiên cứu trong ống 
nghiệm cho thấy IgA không thể kích hoạt bổ thể 
bằng các con đường cổ điển nên con đường hoạt 
hóa của lectin được đưa ra(4,2). Lắng đọng của 
MBL gắn với IgA, như một dấu hiệu để chứng 
mình sự kích hoạt bằng con đường lectin, thêm 
nữa, mối liên quan của cầu thận có lắng đọng 
MBL cho thấy tổn thương thận và kích hoạt bổ 
thể thông qua con đường lectin có thể là một giả 
thuyết hợp lý(8). 
Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm 
mục tiêu: so sánh nồng độ mannose-binding 
lectin 2 (MBL2) ở nhóm bệnh nhân bệnh thận 
IgA có và không có tiến triển suy thận nặng. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu ở 39 mẫu huyết thanh của các bệnh nhân 
bệnh thận IgA (17 bệnh nhân có biểu hiện tiến 
triển nặng và 22 bệnh nhân ổn định, không có 
dấu hiệu tiến triển) và 39 người khoẻ mạnh được 
lấy từ viện Karolinska, Thụy Điển. 
Nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA được đánh 
giá là tiến triển nặng dựa vào sự suy giảm mức 
lọc cầu thận ước tính và creatinin huyết thanh. 
Mức lọc cầu thận ước tính (MLCT) được ước 
lượng theo công thức sửa đổi chế độ ăn uống 
trong bệnh thận (MDRD) phương trình(6). Nhóm 
bệnh thận IgA tiến triển nặng được xác định là 
tăng gấp đôi creatinine huyết thanh trong thời 
gian theo dõi (ít nhất là một năm) hoặc đến giai 
đoạn 5 bệnh thận mãn tính (CKD) (GFR <15 
ml/phút/1,73m2). Các bệnh nhân với các dữ liệu 
lâm sàng có sẵn, không có tăng gấp đôi 
creatinine huyết thanh trong thời gian theo dõi 
được xếp vào nhóm không tiến triển nặng. 
Kỹ thuật ELISA (Antibodyshop, DK-2820 
Gentofte, Đan Mạch) được sử dụng trong nghiên 
cứu này để định lượng nồng độ MBL2 ở nhóm 
bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. 
Các số liệu được mã hóa và xử lý bằng 
chương trình SPSS 17.0. Test Mann-Whitney 
hoặc Kruskal-Wallis được sử dụng để so sánh 
các nồng độ MBL2 trong huyết thanh nhóm 
bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. 
Những test này cũng được ứng dụng để phân 
tích tìm sự khác biệt của nồng độ MBL2 giữa 
các nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến 
triển nặng và không có tiến triển nặng. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 279
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên 
cứu 
Bảng 1: Đặc điểm của các đối tượng nghiên cứu 
Nhóm Số 
lượng 
Tuổi Giới 
Nam Nữ 
Nhóm không tiến 
triển 
22 
(100%) 
33,27±1,7 6 
(27,3%) 
9 (72,7%) 
Nhóm tiến triển 17 
(100%) 
37,47±3,9 3 
(17,6%) 
14 
(82,4%) 
Nhóm chứng 39 
(100%) 
35,08±1,6 9 
(21,3%) 
30 
(76,9%) 
Nhận xét: Bệnh nhân được lựa chọn cho 
nhóm bệnh và nhóm chứng tương đương nhau, 
phù hợp về tuổi, và giới tính. 
So sánh nồng MBL2 trong nhóm bệnh 
nhân bệnh thận IgA tiến triển và nhóm 
không tiến triển suy thận nặng 
Nồng độ MBL2 ở nhóm bệnh nhân bệnh 
thận IgA có tiến triển suy thận nặng là 
20,35±3,56ng/ml (0,01-47,4ng/ml) không khác biệt 
so với nhóm không có tiến triển là 
20,42±4,2ng/ml (0,02-50/ml). 
Bảng 2: Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA tiến triển nặng và nhóm không tiến triển ở các loại nồng độ 
của MBL2 
 Nồng độ MBL2 Nhóm không tiến triển Nhóm tiến triển Tổng số X2 P 
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ% n Tỷ lệ% 
<5 ng/ml 6 15,4% 3 7,7% 9 23,1% 
0,5 
0,7 ≥5 ng/ml 16 41% 14 35,9% 30 76,9% 
Tổng 22 56,4% 17 43,6% 39 100% 
<10 ng/ml 9 23,1% 7 17,9% 16 41% 
0 
1 ≥10 ng/ml 13 33,3% 10 25,6% 23 59% 
Tổng 22 56,4% 17 43,6% 39 100% 
<15 ng/ml 9 23,1% 9 23,1% 18 46,2% 
0,53 
0,34 ≥15 ng/ml 13 33,3% 8 20,5% 21 53,8% 
Tổng 22 56,4% 17 43,6% 39 100% 
<20 ng/ml 11 28,2% 9 23,1% 20 51,3% 
1 
0,55 ≥20 ng/ml 11 28,2% 8 20,5% 19 48,7% 
Tổng 22 56,4% 17 43,6% 39 100% 
Nhận xét: Nồng độ MBL2 được chia thành 
các phân nhóm khác nhau. Tuy nhiên khi so 
sánh tỷ lệ phân bố của nhóm có tiến triển nặng 
và nhóm không có tiến triển ở các phân mức 
khác nhau không thấy sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. 
So sánh nồng độ MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA tiến triển suy thận nặng và 
nhóm chứng 
Bảng 3: Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến triển suy thận nặng và nhóm chứng ở các loại nồng độ 
của MBL2 
 Nồng độ MBL2 Nhóm tiến triển Nhóm chứng Tổng số X2 P 
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ% n Tỷ lệ% 
<5 ng/ml 3 5,4% 8 14,3% 11 19,6% 
1 
0,56 ≥5 ng/ml 14 25% 31 55,4% 45 80,4% 
Tổng 17 30,4% 39 69,6% 56 100% 
<10 ng/ml 7 12,5% 17 30,3% 24 42,8% 
1 
0,55 ≥10 ng/ml 10 17,9% 22 39,3% 32 57,2% 
Tổng 17 30,4% 39 69,6% 56 100% 
<15 ng/ml 9 16,1% 19 33,9% 28 50% 
1 
0,5 ≥15 ng/ml 8 14,3% 20 35,7% 28 50% 
Tổng 17 30,4% 39 69,6% 56 100% 
<20 ng/ml 9 16,1% 21 37,5% 30 53,6% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 280
 Nồng độ MBL2 Nhóm tiến triển Nhóm chứng Tổng số X2 P 
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ% n Tỷ lệ% 
≥20 ng/ml 8 14,3% 18 32,1% 26 46,4% 1 0,59 
Tổng 17 30,4% 39 69,6% 56 100% 
Nhận xét: Nồng độ MBL2 được chia thành 
các phân nhóm khác nhau. Tuy nhiên khi so 
sánh tỷ lệ phân bố của nhóm bệnh nhân bệnh 
thận IgA có tiến triển nặng và nhóm chứng 
người khỏe mạnh ở các phân mức khác nhau 
không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
So sánh nồng độ MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA không tiến triển suy thận 
nặng và nhóm chứng 
Bảng 4: Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA không tiến triển và nhóm chứng người khỏe mạnh ở các loại 
nồng độ của MBL2 
 Nồng độ MBL2 Nhóm không tiến triển Nhóm chứng Tổng số X2 P 
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ% n Tỷ lệ% 
<5 ng/ml 6 9,9% 8 13,1% 14 23% 
0,55 
0,38 ≥5 ng/ml 16 26,2% 31 50,8% 47 77% 
Tổng 22 36,1% 39 63,9% 61 100% 
<10 ng/ml 9 14,8% 17 27,9% 26 42,6% 
1 
0,5 ≥10 ng/ml 13 21,3% 22 36,1% 35 57,4% 
Tổng 22 36,1% 39 63,9% 61 100% 
<15 ng/ml 9 14,8% 19 31,1% 28 45,9% 
0,6 
0,38 ≥15 ng/ml 13 21,3% 20 32,8% 33 54,1% 
Tổng 22 36,1% 39 63,9% 61 100% 
<20 ng/ml 11 18% 21 34,5% 32 52,5% 
0,78 
0,5 ≥20 ng/ml 11 18% 18 29,5% 29 47,5% 
Tổng 22 36% 39 64% 61 100% 
Nhận xét 
Nồng độ MBL2 được chia thành các phân 
nhóm khác nhau. Tuy nhiên khi so sánh tỷ lệ 
phân bố của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA 
không có tiến triển nặng và nhóm chứng 
người khỏe mạnh ở các phân mức khác nhau 
không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
BÀN LUẬN 
Theo tác giả Anja Roos và CS. khi quan sát 
con đường lectin kích hoạt con đường chỉ có ở 
một phần trong tổng số bệnh nhân bệnh thận 
IgA trong nghiên cứu. Phần lớn bệnh nhân bệnh 
thận IgA mà không có lắng đọng MBL tại gian 
mạch cầu thận thì không cho thấy bất kỳ bằng 
chứng nào của sự thiếu hụt MBL hoặc L-ficolin. 
Điều thú vị trong nghiên cứu của tác giả này là 
nồng độ MBL huyết thanh của bệnh nhân bệnh 
thận IgA cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so với 
nhóm chứng khỏe mạnh với p=0,002. Nghiên 
cứu này định lượng MBL huyết thanh 41 bệnh 
nhân bệnh thận IgA nồng độ MBL huyết thanh 
trung bình là 1213 ng/ml cao hơn nhóm 190 
người khỏe mạnh có nồng độ MBL huyết thanh 
trung bình là 677 ng/ml. Điều này cho thấy có sự 
ảnh hưởng của nồng độ MBL đến sự phát triển 
bệnh thận IgA(8). 
MBL và L- ficolin có vai trò quan trọng của 
trong trình đáp ứng miễn dịch, có nhiều bằng 
chứng về MBL và con đường lectin trong việc 
kích hoạt bổ thể có thể gây tổn thương cho nhiều 
cơ quan của vật chủ do các chất trung gian gây 
viêm. MBL đã được báo cáo tham gia vào quá 
trình gây thiếu máu cục bộ, tổn thương tái tưới 
máu trong bệnh nhân đái tháo đường và bệnh 
thận IgA(8,5). Nghiên cứu của Anja Roos và CS. 
cho thấy bệnh nhân bệnh thận IgA với cầu thận 
lắng đọng MBL kích hoạt con đường lectin cho 
thấy thận tổn thương đáng kể hơn so với nhóm 
không có lắng đọng biểu hiện bằng sự giãn rộng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 281
gian cầu thận, thâm nhiễm khoảng kẽ, xơ cứng 
cầu thận và tăng protein niệu. Mối liên quan 
giữa tiến triển nặng bệnh và con đường lectin 
kích hoạt làm tổn thương cầu thận có thể do kích 
hoạt sản phẩm tiền viêm của hệ thống bổ thể, 
bao gồm C5a và C5b-9, và có khả năng ảnh 
hưởng trực tiếp của MBL(8). 
Đồng thời nghiên cứu này cho thấy khi chia 
bệnh nhân thành 2 nhóm, có (25%) và không có 
(75%) bằng chứng về kích hoạt bổ thể của con 
đường lectin tại cầu thận thì cho thấy sự khác 
biệt. Trường hợp bệnh nhân bệnh thận IgA có 
lắng đọng MBL tại gian mạch cầu thận co thấy 
hầu hết có sự suy giảm chức năng thận 2 lần 
hoặc tiến triển đến bệnh thận mạn giai đoạn cuối 
so với nhóm không có lắng đọng MBL2 tại gian 
mạch cầu thận với p<0,0001. Thêm vào đó bệnh 
nhân có lắng đọng MBL2 tại gian mạch cầu thận 
có biểu hiện số lượng protein niệu nhiều hơn 
đáng kể so với nhóm không có lắng đọng MBL2 
tại gian mạch cầu thận(8). 
Khi chúng tôi tiến hành định lượng nồng độ 
MBL2 trong huyết thanh bệnh nhân bệnh thận 
IgA với nhóm có tiến triển suy thận nặng và 
nhóm duy trì được chức năng thận ổn định, kết 
quả nhiên cứu của chúng tôi cho thấy không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 2 nhóm bệnh 
nhân bệnh thận IgA có tiến triển và không có 
tiến triển suy thận nặng. Tuy kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi không đồng nhất với kết quả của 
Anja Roos và CS, nhưng một số tác giả khác 
cũng không tìm thấy vai trò của MBL2 trong một 
số các quần thể bệnh thận IgA khác. 
Endo M. và CS tiến hành nghiên cứu ở 45 
bệnh nhân bệnh thận IgA và 35 bệnh nhân tổn 
thương thận do các bệnh cầu thận khác. Các tiêu 
bản sinh thiết thận được nghiên cứu miễn dịch 
bằng kháng thể đơn dòng chống lại MBL. Mối 
liên quan của lâm sàng mô bệnh học và huyết 
thanh cũng được thực hiện phân tích ở bệnh 
nhân bệnh thận IgA. Các trường hợp phát hiện 
có lắng đọng MBL dương tính ở gian mạch cầu 
thận đều là ở những bệnh nhân bệnh thận IgA 
còn trẻ và sinh thiết thận đã được thực hiện ở 
giai đoạn sớm của bệnh. Tuy nhiên, không có 
tương quan đáng kể giữa lắng đọng 
MBL/MASP-1 ở cầu thận và protein niệu, đái 
máu, creatinin, và nồng độ IgA, C3, C4 hoặc tại 
thời điểm sinh thiết thận. Thêm vào đó, không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
MBL/MASP-1 và các mức độ phức hợp miễn 
dịch hoặc hòa tan C5b-9 trong huyết tương của 
nhóm bệnh và nhóm chứng(3). 
Một trong những nghiên cứu quan trọng là 
nghiên cứu về kiểu gen của những điểm khác 
biệt của gen MBL2 giữa nhóm bệnh và nhóm 
chứng cũng như nhóm có tiến triển nặng và 
không có tiến triển nặng. Vì sự thay đổi của một 
nucleotide trong cấu trúc gen có khả năng ảnh 
hưởng đến nồng độ MBL2 lưu hành trong huyết 
thanh. Sự thay đổi của cấu trúc gen cũng có thể 
ảnh hưởng đến chức năng của MBL2 và có thể 
có ái tính hơn với gian mạch cầu thận hoặc có 
khả năng kết hợp với IgA tạo thành phức hợp 
miễn dịch lắng đọng tại gian mạch cầu thận. 
Nghiên cứu của Pirulli D và CS. tiến hành 
xác định kiểu gen của một số SNPs (single 
nucleotide polymorphisms) của gen MBL ở vị trí 
promoter và codon 54 thực hiện trên 22 gia đình 
bệnh nhân bệnh thận IgA và trong 138 bệnh 
nhân bệnh thận IgA và 74 người khỏe mạnh làm 
nhóm chứng phù hợp về chủng tộc cho thấy tỷ lệ 
alleles và kiểu gen của các SNPs ở vị trí -550, -
328, -221 và codon 54 không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa các bệnh nhân và nhóm 
chứng, đồng thời cũng không cho thấy sự khác 
biệt về tần số tương tự của các SNPs khi phân 
nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA chia theo các 
biểu hiện lâm sàng của tiến triển và không có 
tiến triển nặng(7). 
Con đường lectin kích hoạt bổ sung, được 
khởi xướng bởi các MBL cho thấy sự phức tạp 
trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA cũng 
như quá trình tiến triển bệnh. Rõ ràng rằng 
nhiều nghiên cứu cho thấy MBL2 góp phần vào 
sự phát triển của tổn thương cầu thận trong một 
số lượng đáng kể các trường hợp với bệnh nhân 
bệnh thận IgA. Tuy nhiên, một số nghiên cứu về 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 282
nồng độ MBL2 trong huyết thanh không cho 
thấy sự khác biệt của nồng độ MBL2 ở nhóm 
bênh và nhóm chứng cũng như sự ảnh hưởng 
của nồng độ MBL2 trong sự tiến triển gây nặng 
bệnh ở bệnh nhân bệnh thận IgA. Như vậy, 
những nghiên cứu tiếp theo rất cần tiến hành để 
bổ sung thêm sự hiểu biết sâu sắc hơn về sinh 
bệnh học của bệnh thận IgA. Đặc biệt trong đó 
có mối quan hệ với nhiễm trùng vì MBL2 đóng 
một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chủ 
chống lại tác nhân gây bệnh khác nhau và bệnh 
thận IgA thường có biểu hiện lâm sàng rõ rệt xảy 
ra trong vòng 48 giờ sau viêm đường hô hấp trên 
hoặc nhiễm trùng khác. 
KẾT LUẬN 
Trong kết quả thí nghiệm, chúng tôi không 
tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Mann-
Whitney Test) trong các nồng độ của MBL giữa 
huyết thanh bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến 
triển và không có tiến triển suy thận nặng. Thêm 
vào đó khi chúng tôi phân tích sự tiến triển bệnh 
ở các phân loại mức độ của MBL2 huyết thanh 
cũng không cho thấy bất kỳ xu hướng nào của 
sự khác biệt giữa các nhóm. Chúng tôi kết luận 
rằng trong các đối tượng nghiên cứu của chúng 
tôi, MBL2 là không phải là một biomarker hữu 
ích cho việc dự đoán nguy cơ nặng bệnh cũng 
như yếu tố tiên lượng cho sự tiến triển suy thận 
ở bệnh thận IgA. 
Lời cảm ơn : Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô đã 
tận tình chỉ dạy và tạo mọi điều kiện cho nghiên cứu được tiến 
hành: Stefan H. Jacobson, Leonid Padyukov, Iva Gunnarsson, 
Đỗ Thị Liệu, Đinh Thị Kim Dung, Sigrid Lundberg, Lars 
Wramner, Anders Fernstrom và Lars A Hanson. Tôi cũng xin 
chân thành cảm ơn Eva Jemseby, Per-Anton Westerberg, 
Susanne Schepull, Micael Gylling và Per Eriksson đã tham gia 
tạo dựng bước đầu cho quá trình nghiên cứu. Tôi chân thành 
cảm ơn sự hỗ trợ của dự án các bệnh phổ biến Việt Nam, Đại 
học Y Hà Nội, Sida/SAREC, Roche, quĩ nghiên cứu thận Thụy 
Điển. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Akito T, Reiko T, Takayuki S (2005). Mannose binding lectin: 
Genetics and autoimmune disease. Autoimmunity Reviews 4: 
364–372. 
2. Donadio JV, Grande JP (2002). IgA nephropathy. N Engl J 
Med 347: 738 –748. 
3. Endo M, Ohi H, Ohsawa I et al (1998). Glomerular deposition 
of mannose-binding lectin (MBL) indicates a novel 
mechanism of complement activation in IgA nephropathy. 
Nephrol Dial Transplant. 13(8): 1984-90. 
4. Floege J, Feehally J (2000). IgA nephropathy: Recent 
developments. J Am Soc Nephrol 11: 2395–2403. 
5. Hansen TK, Tarnow L, Thiel S, et al (2004). Association 
between mannose-binding lectin and vascular complications 
in type 1 diabetes. Diabetes 53: 1570 –1576. 
6. Levey AS, Bosch JP, Lewis JB et al (1999). A more accurate 
method to estimate glomerular filtration rate from serum 
creatinine: a new prediction equation. Modification of Diet in 
Renal Disease Study Group. Ann Intern Med, 130(6): p. 461-
70. 
7. Pirulli D, Boniotto M, Vatta L et al (2001). Polymorphisms in 
the promoter region and at codon 54 of the MBL2 gene are not 
associated with IgA nephropathy. Nephrol Dial Transplant. 
16(4): 759-64. 
8. Roos A, Rastaldi MP, Calvaresi N et al (2006). Glomerular 
Activation of the Lectin Pathway of Complement in IgA 
Nephropathy Is Associated with More Severe Renal Disease. J 
Am Soc Nephrol 17: 1724–1734. 
Ngày nhận bài báo: 16/10/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014