Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Dịa lí ở trường Trung học phổ thông

Mind map is used widely in teaching today as it contributes to meeting the goal of teaching

ability oriented development. Geography in general and geography in high school in particular have

many advantages for using mind map during teaching process. The content of the article analyzes the

role, the situation, the usage of mind map in teaching in general, geography teaching in high school

in particular, on that basis proposed methods of thinking map in the process of teaching.

pdf5 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 13/05/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Dịa lí ở trường Trung học phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 243-246; 250 243 SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Nguyễn Phương Liên - Phạm Hương Giang Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên Ngày nhận bài: 15/07/2017; ngày sửa chữa: 20/08/2018; ngày duyệt đăng: 29/08/2018. Abstract: Mind map is used widely in teaching today as it contributes to meeting the goal of teaching ability oriented development. Geography in general and geography in high school in particular have many advantages for using mind map during teaching process. The content of the article analyzes the role, the situation, the usage of mind map in teaching in general, geography teaching in high school in particular, on that basis proposed methods of thinking map in the process of teaching. Keyword: Mind map, geography, high school, teaching process, efficiency. 1. Mở đầu Nội dung môn Địa lí trong nhà trường phổ thông cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về cấu tạo, tính chất lí hóa của Trái đất, về các đặc điểm đặc trưng, cùng với sự phân bố, mối quan hệ tác động qua lại, quy luật phát sinh, phát triển của điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và hoạt động KT-XH của con người trên phạm vi thế giới và Việt Nam, làm cơ sở cho sự hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục tư tưởng tình cảm đúng đắn cho học sinh; đồng thời, rèn luyện cho học sinh các kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và xu thế của thời đại. Cùng với các môn học khác, môn Địa lí góp phần bồi dưỡng cho học sinh ý thức trách nhiệm, lòng ham mê hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người và đất nước. Theo đó, mục tiêu của môn Địa lí chú trọng đến sự hình thành và rèn luyện cho học sinh các năng lực cần thiết của người lao động mới. Trong xu thế đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, việc phát triển năng lực tư duy cho học sinh là một trong những ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, trong dạy học ở trường phổ thông, cần đặc biệt chú trọng sử dụng các phương pháp dạy học có tác dụng phát triển năng lực tư duy của người học và bản đồ tư duy (BĐTD) là một trong những phương pháp đáp ứng được mục tiêu đó, bởi nó dùng hình ảnh, màu sắc để liên kết các kiến thức bài học, do đó sẽ góp phần nâng cao nhận thức và tư duy sáng tạo cho mỗi cá nhân người học. Tuy nhiên, với các môn học, cấp học và đối tượng học sinh khác nhau, việc sử dụng BĐTD trong dạy học cũng có sự khác nhau. Bài viết đề cập một số vấn đề về sử dụng BĐTD trong dạy học môn Địa lí cấp trung học phổ thông (THPT) ở trên lớp. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm và vai trò của bản đồ tư duy trong dạy học Theo Tony Buzan, “BĐTD là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng” [1; tr 35]. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Các nhánh chính lại được phân thành những nhánh nhỏ và có thể những nhánh nhỏ này lại tiếp tục được phân thành nhiều nhánh nhỏ hơn, nhằm nghiên cứu vấn đề ở mức độ sâu hơn nữa. Nhờ sự kết nối liên tục giữa các nhánh như vậy, mà các ý tưởng cũng có sự liên kết với nhau dựa trên mối liên hệ của bản thân chúng, điều này khiến BĐTD có thể bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng mà một bản liệt kê ý tưởng thông thường không thể làm được. Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng. BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau. Vì vậy, trong giáo dục, sử dụng BĐTD giúp học sinh chủ động hơn trong việc ghi chép, lĩnh hội và trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, làm việc tự giác, tích cực, độc lập, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, lập kế hoạch học tập,... Đối với giáo viên, việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên trình bày kiến thức một cách hệ thống, khoa học và logic, nội dung bài học trở nên trực quan, lôi cuốn sự chú ý của học sinh mà không sợ bị bỏ sót ý. Không những thế, sử dụng BĐTD còn giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học với nhau, góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học ở các nhà trường phổ thông hiện nay. 2.2. Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Địa lí ở các trường phổ thông hiện nay Việc sử dụng BĐTD trong dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng ở trường THPT hiện nay vẫn còn là VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 243-246; 250 244 vấn đề khá mới mẻ và không phải giáo viên và học sinh nào cũng được tiếp cận hoặc biết cách sử dụng có hiệu quả. Qua nghiên cứu thực tế, có một số nguyên nhân cơ bản là: - Một số bài học trong chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong khi đó thời gian cho một tiết học chỉ có 45 phút nên giáo viên đã lựa chọn phương pháp giảng dạy đơn giản như thuyết trình, đàm thoại,... với sự minh hoạ của một vài phương tiện dạy học trực quan truyền thống; - Ý thức và khả năng tự ghi bài của một số học sinh còn yếu, một số học sinh còn thụ động trong học tập nên khó khăn trong áp dụng các phương pháp dạy học mới, nhằm phát huy năng lực tư duy và tính tích cực của học sinh; - Một số giáo viên nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của việc đổi mới phương pháp dạy học nên chưa thực sự đầu tư cho việc thiết kế bài dạy và tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp theo hướng thiết kế các hoạt động dạy học; - Trang thiết bị và cơ sở vật chất ở đa số các trường học không đủ hoặc không có để dạy học theo phương pháp tích cực. 2.3. Đặc điểm chương trình, sách giáo khoa Địa lí trung học phổ thông Chương trình môn Địa lí THPT là một bộ phận quan trọng trong tổng thể chương trình môn Địa lí ở phổ thông, chương trình có sự kế thừa và nâng cao các kiến thức địa lí đã có ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Trong chương trình địa lí ở bậc học này, có ba mảng kiến thức cơ bản tương ứng với 3 khối/lớp: chương trình môn Địa lí 10 là các kiến thức về địa lí đại cương, gồm 2 phần: - Địa lí tự nhiên đại cương; - Địa lí KT-XH đại cương. Chương trình môn Địa lí 11 là các kiến thức về địa lí thế giới, gồm 2 phần: - Khái quát về nền KT-XH thế giới; - Địa lí khu vực, các quốc gia tiêu biểu. Chương trình môn Địa lí 12 là các kiến thức địa lí Việt Nam, gồm 5 phần: - Địa lí tự nhiên; - Địa lí dân cư; - Địa lí các ngành kinh tế; - Địa lí các vùng; - Địa lí địa phương. Về sách giáo khoa địa lí, nội dung kiến thức được thiết kế thành các bài học tương đối độc lập với số tiết từ 1-3 tiết/bài, tuỳ từng khối/lớp. Hệ thống kiến thức trong mỗi bài được sắp xếp logic, hợp lí, tập trung chính vào một chủ đề hay một từ khóa xác định, đồng thời nhiều nội dung gắn với kiến thức thực tiễn nên tạo điều kiện cho người học có thể suy nghĩ phát triển nội dung bài học từ một ý tưởng chính. Hệ thống kênh hình, kênh chữ và câu hỏi rất phong phú, tạo điều kiện cho học sinh có thể khai thác, đào sâu kiến thức, tự học và tự rèn luyện các kĩ năng bộ môn. Từ những đặc điểm trên, có thể thấy rằng, chương trình và sách giáo khoa Địa lí THPT của Việt Nam rất thuận lợi cho việc sử dụng BĐTD vào trong dạy học trên lớp cho học sinh. 2.4. Một số gợi ý sử dụng hiệu quả bản đồ tư duy giúp nâng cao chất lượng dạy học Địa lí trung học phổ thông - Sử dụng BĐTD trong việc dạy học bài mới Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày bài giảng mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng, sẽ sử dụng BĐTD để thể hiện một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Toàn bộ nội dung cần truyền đạt đến học sinh được thể hiện trên bản đồ mà không bị sót ý. Học sinh thay vì ghi chép một cách tỉ mỉ thì chỉ cần chọn lọc các thông tin quan trọng, sơ đồ hóa chúng bằng các mối quan hệ và thể hiện lại theo cách hiểu của mình. Với cách học này, cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào quá trình dạy học một cách chủ động và tích cực hơn. Giáo viên vừa giảng bài vừa thể hiện trên BĐTD hoặc vừa tổ chức cho học sinh khai thác kiến thức, vừa hoàn thành BĐTD trên giấy hoặc trên bảng. Học sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, đọc sách giáo khoa, trả lời câu hỏi và ghi chép nên học sinh học tập tích cực hơn. Ví dụ: Khi học “Địa lí các ngành giao thông vận tải” (bài 32, Địa lí 10), nội dung kiến thức bài này không khó song lại có nhiều nội dung và số liệu cần phải nhớ. Nếu giáo viên sử dụng phương pháp truyền thống thì vấn đề chính của bài vẫn được giải quyết song hiệu quả không cao, do vấn đề sẽ bị trình bày dàn trải, dẫn đến nhàm chán. Đồng thời, học sinh không thấy được mối quan hệ về mặt kiến thức giữa các nội dung trong bài, vì thế cũng không có được cái nhìn tổng thể về các loại hình giao thông (về đặc điểm, tình hình phát triển và phân bố) một cách đầy đủ, rõ ràng và khó so sánh được ưu, nhược điểm giữa các loại hình giao thông vận tải với nhau. Còn nếu sử dụng BĐTD cho bài học này, mọi vấn đề nêu trên sẽ đồng thời được giải quyết hiệu quả mà không mất nhiều thời gian, học sinh lại hứng thú, dễ hiểu, dễ nhớ (xem hình 1 trang bên). - Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức sau mỗi bài học Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức bài học là việc làm rất có hiệu quả. Giáo viên sử dụng BĐTD để thể hiện lại những nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc sâu các kiến thức trọng tâm. Học sinh sử dụng BĐTD để thể hiện lại sự hiểu biết của mình sau khi tiếp thu nội dung bài học, đồng thời là một kênh thông tin phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh giá nhận thức của từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình sao cho phù hợp. Đáp ứng cho mục đích củng cố kiến thức cho học sinh sau mỗi bài học thì dạng bài tập thích hợp nhất là điền thông tin còn thiếu vào BĐTD. Các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm bài học. Ví dụ: Sau khi học xong bài 37. “Vấn đề khai thác thế mạnh ở Tây Nguyên” (Địa lí 12), học sinh phải hiểu được những đặc điểm khái quát về vị trí, phạm vi, diện tích, dân số, điều kiện tự nhiên và KT-XH, phân tích và đánh giá được các thế mạnh và hạn chế của vùng trong quá trình phát triển. Sử dụng BĐTD để củng cố và hệ thống lại toàn bộ kiến thức của bài sẽ là phương pháp hợp lí và tối ưu nhất nhằm giúp VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 243-246; 250 245 giáo viên và học sinh không bị bỏ sót ý, học sinh nhớ lâu và hiểu sâu các ý chính (xem hình 2 trang bên). - Sử dụng BĐTD để tổng hợp kiến thức một chương Dùng BĐTD có thể thể hiện một lượng thông tin từ nhỏ đến rất lớn. Tương tự, giáo viên và học sinh có thể thể hiện một phần nội dung bài học, một bài học hoặc nhiều bài học, một chương kiến thức. Vấn đề là các nội dung này, có điểm chung với nhau, có mối quan hệ với nhau thông qua từ khóa. Tùy theo mục đích sử dụng mà có thể thiết kế BĐTD trong một giờ học thông thường, trong giờ kiểm tra, giờ thực hành, ôn tập, tổng kết hay hệ thống một chương, một phần kiến thức. Với cách sử dụng BĐTD như thế này, giáo viên có thể cùng học sinh làm ngay tại lớp hoặc có thể giao về nhà cho học sinh hay nhóm học sinh thực hiện. Ví dụ: Sau khi học xong phần “Đặc điểm chung của tự nhiên Việt Nam” (bao gồm 7 bài, tính từ bài 6 đến bài 12, Địa lí 12), giáo viên có thể ôn tập, tổng kết kiến thức phần này để kiểm tra hoặc để bước sang một phần mới bằng cách thành lập một BĐTD, trong đó thể hiện được gần như trọn vẹn và logic những nội dung chính của các bài mà không mất nhiều thời gian. Qua đó, giúp học sinh có thể dễ dàng hơn trong việc ôn tập và củng cố kiến thức. - Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra, đánh giá Vì thời gian kiểm tra bài cũ đầu giờ không nhiều, chỉ khoảng 5-7 phút, nên yêu cầu kiểm tra của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi học sinh nhiều sự phân tích, so sánh,... Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên phần lớn sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc lòng của học sinh mà ít quan tâm đến mức độ hiểu biết bản chất vấn đề. Do đó, việc sử dụng BĐTD khi kiểm tra bài cũ vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh, bằng cách giáo viên đưa ra các BĐTD thiếu thông tin và yêu cầu học sinh điền thông tin vào các phần còn thiếu đó, đồng thời rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác được khả năng nhận thức của học sinh, từ đó tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học. Ví dụ: Trước khi chuyển sang dạy bài 7. “Cấu trúc của Trái đất. Thạch quyển. Thuyết kiến tạo mảng” (Địa lí 10), giáo viên yêu cầu một học sinh lên bảng vẽ và điền các thông tin cho nhánh chính là các hệ quả chuyển động quay xung quanh Mặt trời của Trái đất và nhánh phụ là đặc điểm của các hệ quả đó trên một BĐTD trống, mới có từ khóa “Hệ quả chuyển động xung quanh Mặt trời của Trái đất” (bài 6). Việc hoàn thành thông tin cho các nhánh chính là một yêu cầu đơn giản, không mất nhiều thời gian, nhưng nếu học sinh không học bài thì sẽ không vẽ được và điền được hoặc sẽ điền thiếu, điền sai, điền không chính xác. - Sử dụng BĐTD để ra bài tập về nhà Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh hoặc nhóm học sinh trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép (trình độ học sinh, thời gian, kinh tế,...). Yêu cầu đối với bài tập VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 243-246; 250 246 về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư hơn (cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin,...), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Bài tập về nhà nên thiên về tính mở, vì vậy giáo viên cần định hướng cho học sinh cách tìm kiếm thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau, đặc biệt từ mạng Internet bằng cách cung cấp cho học sinh một số trang web thông dụng và chuẩn xác. 2.5. Một số lưu ý khi sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Để sử dụng BĐTD trong dạy học có hiệu quả, giáo viên cần nghiên cứu nội dung chương trình, nội dung bài học, lựa chọn ra những phần, những bài có khả năng áp dụng BĐTD. Sau đó, phân tích nội dung bài học để tìm ra những vấn đề, những biểu tượng, khái niệm, mối quan hệ cần hình thành và truyền đạt cho học sinh; xác định các dạng bài tập với BĐTD phù hợp với đối tượng học sinh, quỹ thời gian, điều kiện trường lớp và trang thiết bị dạy học. Tránh lạm dụng hay mắc tính hình thức trong sử dụng BĐTD, vì nếu sử dụng quá nhiều BĐTD sẽ làm cho các tiết học, bài học trở nên nhàm chán và căng thẳng, còn khi sử dụng BĐTD chỉ mang tính chất hình thức sẽ không đem lại bất cứ hiệu quả nào đối với việc phát huy năng lực và nâng cao nhận thức của học sinh. Do đó, không phải bất cứ nội dung nào, bài nào cũng có thể sử dụng BĐTD; và, giống như các thiết bị dạy học khác, BĐTD cũng có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó, cho nên sử dụng BĐTD trong dạy học cần đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. Điều đó cũng có nghĩa là, giáo viên cần kết hợp sử dụng BĐTD với các phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị dạy học cho tương xứng với nội dung bài học và đối tượng học sinh để đạt hiệu quả cao nhất. Đối với học sinh, để sử dụng hiệu quả BĐTD trong quá trình học tập các em cần rèn luyện thói quen tư duy logic theo hình thức sơ đồ hóa trên BĐTD thông qua việc giáo viên cung cấp các kiến thức cơ bản về BĐTD và sử dụng BĐTD có sẵn trong một số bài học, tiết học phù hợp. Tiếp theo, các em cần có kĩ năng vẽ và đọc BĐTD về một nội dung cụ thể khi giáo viên yêu cầu. Để làm được điều này, chắc chắn giáo viên phải hướng dẫn học sinh vẽ và đọc BĐTD một vài lần. Ở mức độ cao hơn, các em còn có thể sử dụng các phần mềm vẽ BĐTD để vẽ ra các BĐTD bằng máy tính, vừa tiện lợi, vừa khoa học và đẹp mắt. Cuối cùng, các em cần biết cách làm việc theo nhóm, cặp trong các tiết học sử dụng BĐTD để cùng nhau học hỏi, chia sẻ lẫn nhau về cách vẽ, cách đọc BĐTD. Điều này không chỉ mang lại hiệu quả cao về mặt lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng cho học sinh, mà còn tiết kiệm thời gian cho giáo viên khi tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp. Đồng thời, khi tổ chức học tập bằng BĐTD theo nhóm, cặp sẽ là cơ hội để học sinh học cách lập kế hoạch, phân công công việc, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ, phát huy tối đa sức sáng tạo và khiếu thẩm mĩ của mình, biết lắng nghe, sẻ chia kinh nghiệm và sẵn sàng giúp đỡ các bạn trong lớp. Đây chính là một số phẩm chất và năng lực cần thiết phải hình thành ở người học mà mục tiêu giáo dục nước ta đang hướng tới. 3. Kết luận Qua những phân tích ở trên, có thể khẳng định, BĐTD là một công cụ hữu ích, trực quan trong giảng dạy và học (Xem tiếp trang 250) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 247-250 250 2.4.3. Xây dựng môi trường thuận lợi, đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin phục vụ cho quá trình dạy học Đây là một điều kiện cần để việc ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học, quản lí giáo dục của các nhà trường phổ thông được thực hiện, duy trì thường xuyên và có hiệu quả. Để làm tốt việc này, các nhà trường phổ thông phải chủ động trong việc xây dựng nguồn kinh phí đầu tư, phải biết huy động tổng hợp các nguồn lực từ nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, từ gia đình phụ huynh và của chính nguồn lực nhà trường tạo ra. Bên cạnh đó, các nhà trường cũng cần làm tốt công tác tập huấn sử dụng các trang thiết bị CNTT cho đội ngũ GV, nhân viên phụ trách quản lí, sửa chữa; sử dụng có hiệu quả nguồn trang thiết bị hiện có tốt, bền, tránh lãng phí, sử dụng không đúng mục đích. 3. Kết luận Hiện nay, Nhà nước, Bộ GD-ĐT, cộng đồng xã hội,... đã đặc biệt quan tâm tới hoạt động giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục theo hướng ứng dụng CNTT nói riêng trong mỗi nhà trường. Đây là điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong các nhà trường phổ thông. Có một số biện pháp thực hiện ứng dụng CNTT trong dạy học tại các nhà trường phổ thông như: xác định rõ những nội dung ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học ở trường phổ thông; làm tốt công tác bồi dưỡng cho đội ngũ GV về kiến thức, kĩ năng ứng dụng CNTT vào dạy học và xây dựng môi trường thuận lợi, đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị CNTT phục vụ cho quá trình dạy học. Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2001). Chỉ thị số 29/2001/CT-BGDĐT ngày 30/07/2001 về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2001-2005. [2] Phó Đức Hòa - Ngô Quang Sơn (2008). Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tích cực. NXB Giáo dục. [3] Phan Thị Thanh Lê (2016). Quản lí ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở các trường tiểu học quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tạp chí Giáo dục, số 6, tr 22-24. [4] Phan Thanh Long - Lê Tràng Định (2008). Những vấn đề chung của Giáo dục học. NXB Đại học Sư phạm. [5] Phạm Thị Lệ Hằng (2016). Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở các trường trung học cơ sở Thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay. Tạp chí Giáo dục, số 12, tr 223-225. [6] Phạm Thị Lệ Hằng (2016). Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường trung học cơ sở đáp ứng yêu cầu đổ mới giáo dục hiện nay. Tạp chí Giáo dục số 6, tr 196-198. [7] Đỗ Mạnh Cường (2008). Giáo trình ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC... (Tiếp theo trang 246) tập ở trường phổ thông, nhất là ở bậc THPT. BĐTD giúp cho giáo viên và học sinh cải thiện cách dạy học theo lối truyền thụ một chiều, thụ động và nhàm chán để chuyển sang một cách dạy học mới tích cực, năng động, sáng tạo và luôn có sự tương tác hai chiều giữa giáo viên và học sinh trong cả một giờ học. Vì vậy, có thể nói sử dụng BĐTD là một trong những phương pháp hiệu quả, tích cực trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đã đưa ra một số cách sử dụng BĐTD trong dạy học Địa lí bậc THPT ở trên lớp (bao gồm giảng dạy bài mới, củng cố kiến thức sau mỗi bài học, kiểm tra, đánh giá kiến thức cũ, tổng kết kiến thức của một chương hay nhiều bài học, giao bài tập về nhà) như là một sự gợi ý cho các giáo viên và học sinh sử dụng hiệu quả hơn BĐTD trong giảng dạy và học tập bộ môn. Đồng thời, chúng tôi cũng nhấn mạnh một số điểm cần lưu ý khi sử dụng BĐTD khi dạy học, đó là cần căn cứ vào nội dung bài học, đối tượng học sinh, quỹ thời gian và điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học mà sử dụng BĐTD cho hợp lí, tránh tình trạng lạm dụng hay sử dụng chỉ mang tính hình thức; cần lựa chọn kết hợp BĐTD với các phương pháp và phương tiện dạy học tích cực khác để phát huy tối đa năng lực của người học và góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Địa lí ở các trường THPT ở Việt Nam hiện nay. Tài liệu tham khảo [1] Tony Buzan (2007). The Mind Map book. NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. [2] Joyce Wycoff (2008). Ứng dụng bản đồ tư duy. NXB Lao động - Xã hội. [3] Trần Đình Châu - Đặng Thị Thu Thủy (2011). Dạy tốt học tốt các môn bằng bản đồ tư duy. NXB Giáo dục Việt Nam. [4] Đặng Văn Đức - Nguyễn Thị Thu Hằng (2003). Dạy học Địa lí theo hướng tích cực. NXB Đại học Sư phạm. [5] Bộ GD-ĐT (2017). Địa lí 10. NXB Giáo dục Việt Nam. [6] Bộ GD-ĐT (2017). Địa lí 11. NXB Giáo dục Việt Nam. [7] Bộ GD-ĐT (2017). Địa lí 12. NXB Giáo dục Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_hoc_dia_li_o_truong_trung_ho.pdf