Nghiên cứu thực hiện khảo sát thông qua bảng hỏi bằng giấy tại các gian hàng
thực phẩm hữu cơ tại các siêu thị trong thành phố và bảng hỏi trực tuyến. Kết
quả nghiên cứu khẳng định tồn tại sự nghi ngờ đối với nhãn hữu cơ, đặc biệt là
những thông tin về bảo vệ môi trường trên bao bì và người tiêu dùng nghĩ rằng
những thông tin đó chủ yếu nhằm họ hiểu nhầm về sản phẩm, thay vì cung cấp
thông tin chính xác. Nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò điều tiết, chi phối của sự nghi
ngờ, cụ thể sự nghi ngờ đối với nhãn hữu cơ càng cao thì tác động của kiến thức
về thực phẩm hữu cơ đến thái độ và ý định tiêu dùng càng giảm. Từ đó, nghiên
cứu đề xuất doanh nghiệp và nhà nước cần phối hợp xây dựng những cổng thông
tin đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy về sản phẩm, đồng thời xây dựng những chiến
lược quảng cáo, marketing phù hợp, gần gũi, lồng ghép vào các chương trình
thực tế, giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao tính thuyết phục của các thông tin
được truyền tải. Từ đó, nghiên cứu đề xuất doanh nghiệp và Nhà nước cần phối
hợp xây dựng những cổng thông tin đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy về sản phẩm,
đồng thời xây dựng những chiến lược quảng cáo, marketing phù hợp, gần gũi,
lồng ghép vào các chương trình thực tế, giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao tính
thuyết phục của các thông tin được truyền tải.
              
            Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
460 
SỰ NGHI NGỜ CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
ĐỐI VỚI NHÃN HỮU CƠ CỦA THỰC PHẨM 
Vũ Thị Hương*, Lê Thị Hiền, 
Phạm Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Thu Hồng 
Trường Đại học Ngoại thương Cơ sở 2 tại TP. Hồ Chí Minh 
*Tác giả liên lạc: 
[email protected] 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu thực hiện khảo sát thông qua bảng hỏi bằng giấy tại các gian hàng 
thực phẩm hữu cơ tại các siêu thị trong thành phố và bảng hỏi trực tuyến. Kết 
quả nghiên cứu khẳng định tồn tại sự nghi ngờ đối với nhãn hữu cơ, đặc biệt là 
những thông tin về bảo vệ môi trường trên bao bì và người tiêu dùng nghĩ rằng 
những thông tin đó chủ yếu nhằm họ hiểu nhầm về sản phẩm, thay vì cung cấp 
thông tin chính xác. Nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò điều tiết, chi phối của sự nghi 
ngờ, cụ thể sự nghi ngờ đối với nhãn hữu cơ càng cao thì tác động của kiến thức 
về thực phẩm hữu cơ đến thái độ và ý định tiêu dùng càng giảm. Từ đó, nghiên 
cứu đề xuất doanh nghiệp và nhà nước cần phối hợp xây dựng những cổng thông 
tin đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy về sản phẩm, đồng thời xây dựng những chiến 
lược quảng cáo, marketing phù hợp, gần gũi, lồng ghép vào các chương trình 
thực tế, giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao tính thuyết phục của các thông tin 
được truyền tải. Từ đó, nghiên cứu đề xuất doanh nghiệp và Nhà nước cần phối 
hợp xây dựng những cổng thông tin đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy về sản phẩm, 
đồng thời xây dựng những chiến lược quảng cáo, marketing phù hợp, gần gũi, 
lồng ghép vào các chương trình thực tế, giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao tính 
thuyết phục của các thông tin được truyền tải. 
Từ khóa: Sư nghi ngờ, niềm tin, thực phẩm hữu cơ, hữu cơ, kiến thức, thái độ, ý 
định tiêu dùng. 
SKEPTICISM TOWARD ORGANIC LABELS OF CONSUMERS 
IN HO CHI MINH CITY 
Vu Thi Huong*, Le Thi Hien, 
Pham Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Thu Hong 
Foreign Trade University, Ho Chi Minh City Campus 
*Corresponding Author: 
[email protected] 
ABSTRACT 
Both offline and online surveys was conducted through paper questionnaires in 
organic food stalls in supermarkets and online Google Form ones. The results 
confirm the existence of skepticism toward organic label, especially is 
environmental protection information mentioned in these labels, which is 
believed aiming to cause misunderstanding about their products instead of giving 
the correct information. The results also suggest the moderating role of 
skepticism, which means that the higher the skeptical level is, the lower effect of 
knowledge about organic foods towards attitude and purchase intention to these 
products. From these findings, the study recommends the collaboration between 
enterprises and the government to build a sufficient, reliable sources of 
information about organic foods and policy related. Besides, these information 
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
461 
should be included in some social, practical programs or community education 
in order to increase the trustworthiness of these information. 
Keywords: Skeptical, skepticism, confidence, organic, organic foods, attitude, 
intention. 
TỔNG QUAN 
Hiện nay, trên thế giới chưa không có 
nhiều bài nghiên cứu về tác động của 
sự nghi ngờ đối với nhãn thực phẩm 
hữu cơ ảnh hưởng đến quyết định tiêu 
dùng thực phẩm hữu cơ của khách 
hàng. Sự nghi ngờ được chứng minh là 
nhân tố ảnh hưởng đến ý định tiêu dùng 
thực phẩm. Teng và Wang (2014) đã 
chứng minh rằng niềm tin và thái độ 
đóng một vai trò trung gian trong việc 
liên kết thông tin từ nhãn hữu cơ và 
kiến thức về thực phẩm hữu cơ với ý 
định tiêu dùng thực phẩm hữu cơ. Aji 
(2017) đã kiểm tra và chứng minh rằng 
có tồn tại sự nghi ngờ về nhãn Halal ở 
Indonesia. Tác giả đã đưa ra mô hình 
nghiên cứu trong đó sự nghi ngờ đóng 
vai trò biến điều tiết và tác động nhiều 
đến các mối quan hệ khác. Công trình 
kết luận rằng sự hoài nghi của người 
tiêu dùng đối với nhãn Halal có tồn tại 
ở Indonesia. Albayrak, Tahir và cộng 
sự (2011) cũng đã tiến hành đo lường 
mức độ ảnh hưởng của sự nghi ngờ lên 
hành vi mua sắm xanh của người tiêu 
dùng. Sự nghi ngờ có ảnh hưởng tiêu 
cực đến hành vi tiêu dùng xanh. Đồng 
thời, mức độ hoài nghi cao sẽ làm giảm 
đáng kể nhận thức tích cực của người 
tiêu dùng, mối quan tâm về môi trường 
và hành vi tiêu dùng xanh. Goh và 
Balaji (2016) cũng đã chỉ ra rằng sự 
nghi ngờ có tác động gián tiếp, tiêu cực 
đối với hành vi mua sắm xanh thông 
qua hai biến trung gian là mối quan tâm 
về môi trường và kiến thức về môi 
trường. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Bài nghiên cứu sử dụng các phương 
thức nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu, 
phương pháp thu thập số liệu và chọn 
mẫu, phương pháp phân tích dữ liệu. 
Về phương pháp thiết kế nghiên cứu và 
phương pháp thu thập số liệu và chọn 
mẫu, nghiên cứu được thực hiện thông 
qua hai bước: nghiên cứu sơ bộ và 
nghiên cứu chính thức. Phương pháp 
chọn mẫu là phương pháp chọn mẫu 
thuận tiện. 
Về phương pháp phân tích dữ liệu, bài 
nghiên cứu kiểm định độ tin cậy của 
thang đo thông qua hệ số tin cậy 
Cronbach’s Alpha. Một biến đo lường 
có hệ số tương quan biến - tổng (hiệu 
chỉnh) (Corrected item-total 
correlation) ≥ 0.30 thì biến đó đạt yêu 
cầu; thang đo có Cronbach alpha ≥ 
0.60 là thang đo chấp nhận được về 
mặt độ tin cậy (Nunnally và Bernstein, 
1994). Sau đó, tiến hành phân tích 
nhân tố khám phá EFA để tiếp tục đánh 
giá sơ bộ thang đo. Khi tiến hành phân 
tích nhân tố, nhóm tác giả sử dụng 
phương pháp trích (extraction method) 
là Principle Components Analysis với 
phép xoay (rotation) Promax. Phân tích 
nhân tố khẳng định CFA sau khi đã rút 
gọn được các nhân tố phù hợp nhằm 
kiểm định sự phù hợp của mô hình. 
Cuối cùng là mô hình cấu trúc tuyến 
tính SEM để kiểm định mô hình nghiên 
cứu và các giả thuyết nghiên cứu đã đề 
xuất. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Kết quả thống kê mô tả 
Về kết quả chung, với mẫu khảo sát là 
150 người, có thể nhận thấy đa số đối 
tượng khảo sát sống ở nội thành (82%), 
trong độ tuổi từ 18 đến 24 tuổi (67%), 
còn độc thân chiếm đa số (79%), trình 
độ học vấn đại học hoặc tương đượng 
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
462 
(87%) và đối tượng nữ có sự quan tâm 
về thực phẩm nhiều hơn nam giới 
(52%). 
Về mức độ phổ biến của thực phẩm 
hữu cơ, đa số người được khảo sát khá 
quen thuộc với thực phẩm hữu cơ 
(chiếm 41,56%), tỷ lệ người không hề 
biết về loại sản phẩm này khá thấp 
(4,55%). Tuy nhiên tần suất sử dụng 
còn khá hạn chế. Về mức độ nghi ngờ 
đối với nhãn hữu cơ, mức độ nghi ngờ 
nhìn chung ở mức trung bình. 
Kết quả kiểm định Cronbach Alpha 
Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo 
Kiến thức đối với thực phẩm hữu cơ là 
0,857, thang đo Ý định tiêu dùng thực 
phẩm hữu cơ thu được là 0,883 đều lớn 
hơn 0,6 3 nên tất cả các biến quan sát 
của 2 thang đo này được giữ lại và sử 
dụng cho phân tích nhân tố. Hệ số 
Cronbach’s Alpha của thang đo sự 
nghi ngờ đối với nhãn hữu cơ là 0,594, 
sau khi loại biến B1R, hệ số 
Cronbach’s Alpha là 0,605 > 0,6 thỏa 
mãn điều kiện nên biến B2, B3, B4 
được chấp nhận và được đưa vào phân 
tích nhân tố. Hệ số Cronbach Alpha 
của thang đo thái độ đối với thực phẩm 
hữu cơ là 0,859 > 0,6, tuy nhiên các 
biến C3R và C5R không thỏa mãn điều 
kiện về hệ số tương quan biến tổng sau 
các lần kiểm định Cronbach’s Alpha 
nên tiến hành loại 2 biến này, Các biến 
C1, C2, C4, C6, C7, C8, C9, C10, C11 
đều có hệ số tương quan biến tổng lớn 
hơn 0,3 nên thỏa mãn yêu cầu và tiếp 
tục được sử dụng để phân tích nhân tố. 
Kết quả phân tích nhân tố khám phá 
EFA 
Sau 4 lần phân tích nhân tố khám phá 
EFA thu được thu được kết quả 19 biến 
chia thành 4 nhóm nhân tố, cụ thể như 
sau: nhóm thứ nhất: Thái độ đối với 
thực phẩm hữu cơ (CTHAIDO) gồm 8 
biến quan sát C10, C11, C1, C9, C2, 
C8, C6, C4; nhóm thứ hai: Kiến thức 
đối với thực phẩm hữu cơ 
(AKIENTHUC) gồm 4 biến quan sát 
A4, A3, A1, A2; nhóm thứ ba: Ý định 
tiêu dùng thực phẩm hữu cơ 
(DYDINH) gồm 4 biến quan sát D1, 
D4, D2, D3; nhóm thứ tư: Sự nghi ngờ 
đối với nhãn hữu cơ (BSUNGHINGO) 
gồm 3 biến quan sát B2, B3, B4. 
Kết quả phân tích nhân tố khẳng 
định CFA 
Kết quả CFA cho thấy mô hình đạt 
được độ tương thích với dữ liệu thị 
trường: χ2= 247,416 (p=0,000); Chi-
square/df = 1,833 
0,9; CFI = 0,929 > 0,9; và RMSEA = 
0,074 < 0,08. 
Về tính đơn hướng và giá trị hội tụ, kết 
quả cũng cho thấy trọng số CFA (đã 
chuẩn hóa) của tất cả các biến quan sát 
hầu hết lớn hơn 0,5 (riêng biến C6 có 
trọng số nhỏ hơn 0,5, nhưng không quá 
nhỏ (0,433)), có thể khẳng định tính 
đơn hướng và giá trị hội tụ của các 
thang đo sử dụng trong mô hình nghiên 
cứu. Kết quả của CFA cũng cho thấy 
hệ số tương quan giữa từng cặp khái 
niệm có giá trị này khác 1. Do đó, các 
khái niệm đạt giá trị phân biệt. Về độ 
tin cậy tổng hợp, các thang đo thái độ 
đối với thực phẩm hữu cơ, kiến thức về 
thực phẩm hữu cơ, ý định tiêu dùng 
thực phẩm hữu cơ có độ tin cậy tổng 
hợp đạt yêu cầu (>0,7). Thang đo sự 
nghi ngờ đối với nhãn hữu cơ có độ tin 
cậy tổng hợp nhỏ hơn 0,7 nhưng không 
quá nhỏ (0,602). Về phương sai trích, 
thang đo hai khái niệm kiến thức đối 
với thực phẩm hữu cơ và ý định tiêu 
dùng thực phẩm hữu cơ có phương sai 
trích đạt yêu cầu (> 0,5). 
Thang đo thái độ đối với thực phẩm 
hữu cơ và sự nghi ngờ đối với nhãn hữu 
cơ có phương sai trích nhỏ hơn 0,5, 
nhưng không quá nhỏ (lần lượt là 0,469 
và 0,337). Do đó các thang đo này 
được sử dụng tiếp theo để kiểm định 
mô hình nghiên cứu và giả thuyết 
nghiên cứu bằng SEM. 
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
463 
Hình 1. Kết quả CFA của mô hình đo lường (đã chuẩn hóa) 
Kiểm định mô hình lý thuyết và 
kiểm định giả thuyết bằng SEM 
Về kiểm định mô hình lý thuyết, kết 
quả phân tích cấu trúc tuyến tính cho 
thấy mô hình có 90 bậc tự do với giá trị 
thống kê Chi bình phương là 149,894 
(p=0.000); giá trị chi bình phương/df = 
1,665 
0,9 ; và RMSEA = 0,066 < 0,08, nên 
có thể kết luận mô hình đạt được độ 
tương thích với dữ liệu thị trường. 
Kết quả khẳng định sự tồn tại của sự 
nghi ngờ đối với nhãn hữu cơ và vai trò 
điều tiết của nó trong mối quan hệ giữa 
kiến thức về thực phẩm hữu cơ với thái 
độ đối với thực phẩm hữu cơ, kiến thức 
với ý định tiêu dùng loại sản phẩm này. 
Cụ thể, người tiêu dùng TP.HCM có sự 
nghi ngờ ở mức trung bình đối với 
nhãn hữu cơ, đặc biệt là tính xác thực 
của những thông tin về bảo vệ môi 
trường trên nhãn mác, bao bì. Người 
tiêu dùng tin rằng những thông tin đó 
đa phần là nhằm khiến họ hiểu nhầm 
về sản phẩm hơn là cung cấp thông tin 
chính xác. Ngoài ra, nghiên cứu còn 
chỉ ra được tác động vừa trực tiếp vừa 
gián tiếp của kiến thức đến ý định tiêu 
dùng. Khi người tiêu dùng có nhiều 
kiến thức về thực phẩm hữu cơ, họ sẽ 
có thái độ tốt hơn đối với sản phẩm, từ 
đó ý định tiêu dùng sẽ tăng lên. Bên 
cạnh đó, kiến thức cũng trực tiếp tác 
động đến ý định tiêu dùng nhưng với 
mức độ thấp hơn tác động của thái độ 
lên ý định. Ngoài ra, tác động của kiến 
thức đến thái độ và kiến thức lên ý định 
tiêu dùng bị điều chỉnh bởi sự nghi ngờ 
của người tiêu dùng. Sự nghi ngờ càng 
cao thì các tác động này càng giảm. 
Chính vì vậy, nghiên cứu này khẳng 
định vai trò quan trọng của sự nghi ngờ 
trong việc hình thành ý định tiêu dùng 
thực phẩm hữu cơ. 
KẾT LUẬN 
Trong bối cảnh vấn đề về an toàn vệ 
sinh thực phẩm ngày càng được quan 
tâm, “Sự nghi ngờ đối với nhãn hữu cơ 
của thực phẩm của người tiêu dùng 
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” 
xác định có tồn tại sự nghi ngờ đối với 
nhãn hữu cơ. Đề tài chỉ ra 3 yếu tố ảnh 
hưởng đến ý định tiêu dùng thực phẩm 
hữu cơ của người dân TP.HCM gồm 
Kiến thức về thực phẩm hữu cơ, Sự 
nghi ngờ đối với nhãn thực phẩm hữu 
cơ, Thái độ đối với thực phẩm hữu cơ. 
Bên cạnh đó, một số đề xuất được đưa 
ra cho các nhà hoạch định chiến lược 
nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tiêu 
dùng thực phẩm hữu cơ phục vụ lợi ích 
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
464 
của người tiêu dùng trong dài hạn, phát 
triển bền vững sản phẩm thực phẩm 
hữu cơ. Theo đó, các doanh nghiệp nên 
kết hợp truyền tải các nội dung về sức 
khỏe con người và an toàn vệ sinh thực 
phẩm thông qua các chiến dịch quảng 
cáo, tiếp thị cũng như các hoạt động 
cộng đồng nhằm giúp người dân nhận 
thức được giá trị của các sản phẩm thân 
thiện với môi trường, đảm bảo lợi ích 
sức khỏe trong tương lai của người tiêu 
dùng Thành phố Hồ Chí Minh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
ĐẶNG ĐỨC CHIẾN (2017). Truy xuất nguồn gốc rau, quả và các vấn đề chính 
sách. Trung tâm Phát triển nông thôn - Viện Chính sách và Chiến lược phát 
triển nông nghiệp nông thôn. 
NGÔ MINH HẢI, VŨ QUỲNH HOA (2016). Nhận thức của người tiêu dùng 
Việt Nam về thực phẩm hữu cơ: Trường hợp nghiên cứu tại Thành phố Hà 
Nội. Khoa Kinh tế và Phát triển Nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt 
Nam. 
VÕ THỊ NGỌC THÚY (2016). Ảnh hưởng của nhãn mác thực phẩm an toàn đến 
hành vi khách hàng với sản phẩm của nhãn hàng riêng. Tạp chí Khoa học 
Đại học Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh doanh, tập 32, số 4, trang 59-
68.