Mục đích: So sánh tác động của Sevoflurane và Isoflurane trên bình 
diện huyết động lực và chức năng gan, thận trên bệnh nhân bị ung thư gan 
trong và sau mổ.
Bệnh nhân và phương pháp: Tiền cứu 98 trường hợp bệnh nhân ung 
thư gan được mổ chương trình tại Khoa Phẫu thuật-Gây mê Hồi sức, Bệnh 
viện Ung Bướu TP.HCM từ 10/2004 đến 6/2006. 
Kết quả: Không thấy sự khác biệt đáng kể về huyết động trong và 
ngay sau mổ, cũng như về tác hại đối với chức năng gan và thận giữa hai 
nhóm Sevoflurane và Isoflurane. 
Kết luận: Isoflurane đáp ứng được yêu cầu cơ bản của phẫu thuật cắt 
gan trên bệnh nhân ung thư gan trong điều kiện của Bệnh viện Ung Bướu 
TP.HCM hiện nay. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 26 trang
26 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1797 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tác dụng lâm sàng của sevoflurane và isoflurane trên bệnh nhân mổ ung thư gan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÁC DỤNG LÂM SÀNG CỦA SEVOFLURANE 
VÀ ISOFLURANE TRÊN BỆNH NHÂN MỔ UNG THƯ GAN 
Tóm tắt 
Mục đích: So sánh tác động của Sevoflurane và Isoflurane trên bình 
diện huyết động lực và chức năng gan, thận trên bệnh nhân bị ung thư gan 
trong và sau mổ. 
Bệnh nhân và phương pháp: Tiền cứu 98 trường hợp bệnh nhân ung 
thư gan được mổ chương trình tại Khoa Phẫu thuật-Gây mê Hồi sức, Bệnh 
viện Ung Bướu TP.HCM từ 10/2004 đến 6/2006. 
Kết quả: Không thấy sự khác biệt đáng kể về huyết động trong và 
ngay sau mổ, cũng như về tác hại đối với chức năng gan và thận giữa hai 
nhóm Sevoflurane và Isoflurane. 
Kết luận: Isoflurane đáp ứng được yêu cầu cơ bản của phẫu thuật cắt 
gan trên bệnh nhân ung thư gan trong điều kiện của Bệnh viện Ung Bướu 
TP.HCM hiện nay. 
ABSTRACT 
Purpose: To compare the impact of Sevoflurane and Isoflurane on 
perioperative hemodynamics and postanesthesia measures of hepatic and 
renal function of hepatocellular carcinoma patients. 
Patients and Methods: 98 cases of hepatocellular carcinoma treated 
by elective hepatic surgery from 10/2004 to 6/2006 in HCMC Cancer Center 
were studied prospectively. 
Results: No significant differences were observed between 
Sevoflurane and Isoflurane in perioperative hemodynamics and 
postanesthesia measures of hepatic and renal function. 
Conclusions: Isoflurane is still the anesthetic of choice for hepatic 
surgery on hepatocellular carcinoma patients in the present condition of 
HCMC Cancer Center. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư gan nguyên phát làm chết khoảng 1 triệu người mỗi năm trên 
toàn thế giới(10). Ở Việt Nam ung thư gan nguyên phát rất thường gặp. Theo 
ghi nhận ung thư quần thể năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh, ung thư 
gan đứng hàng đầu trong các loại ung thư ở nam giới (1 8,7 %), hàng thứ hai 
chung cho cả hai giới (12,4%) và hàng thứ năm ở nữ giới (6,3%)(7). 
Cho đến hiện nay phẫu thuật cắt gan được công nhận là phương pháp 
điều trị duy nhất có hiệu quả đối với ung thư gan(10). 
Gây mê trong phẫu thuật cắt gan trên các bệnh nhân ung thư gan 
nguyên phát phải đối diện với nhiều thách thức lớn, chủ yếu là: (1) trước mổ 
chức năng gan đã bị rối loạn nhiều (60-80% các trường hợp thường có tình 
trạng xơ gan đi kèm(10)), (2) trong mổ nguy cơ rối loạn huyết động nặng nề 
(mất lượng máu lớn, kẹp cuống gan) 
Các thuốc mê sử dụng phải bảo đảm không hoặc ít gây tác hại cho 
gan, không làm giảm lưu lượng máu qua gan. Trước nay Isoflurane thường 
được chọn để duy trì mê trong các trường hợp mổ cắt gan, do thuốc có tác 
dụng ổn định tuần hoàn, ngay cả khi mê sâu(6), không làm giảm lưu lượng 
máu qua gan(8). Gần đây Sevoflurane, một loại thuốc mê bốc hơi thế hệ mới 
hơn Isoflurane, được dùng rộng rãi do các ưu điểm: khởi mê nhanh, thời 
gian thức tỉnh và rút ống nội khí quản nhanh hơn, nhưng vẫn kiểm soát 
huyết động hiệu quả và an toàn như Isoflurane(3). Do vậy hiện nay 
Sevoflurane cũng đã được lựa chọn để duy trì mê trong các trường hợp mổ 
cắt gan(6). 
Tuy nhiên trên thị trường thuốc hiện nay giá tiền của Sevoflurane và 
máy gây mê chuyên dùng đắt gấp nhiều lần so với Isoflurane. Tình hình 
bệnh nhân ở Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM là quá tải so với khả năng thu 
dung (cơ sở vật chất, thuốc men và trang bị kỹ thuật). Bệnh nhân lại có hoàn 
cảnh kinh tế khó khăn, phần lớn là người nghèo. 
Xuất phát từ tình hình thực tế nói trên, chúng tôi đặt vần đề nghiên 
cứu nên sử dụng thuốc mê nào là thích hợp: Isoflurane hay Sevoflurane, để 
gây mê cho bệnh nhân mổ ung thư gan ở Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
hiện nay. 
Mục tiêu nghiên cứu 
1. So sánh tác động của Sevoflurane và Isoflurane trên bình diện 
huyết động lực và chức năng gan-thận trên bệnh nhân bị ung thư gan trong 
và sau mổ. 
2. Lựa chọn thuốc mê thích hợp cho người bệnh ung thư gan cần mổ 
tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM trong điều kiện hiện nay. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện trên các bệnh nhân phẫu thuật gan theo 
chương trình tại Khoa Phẫu thuật-Gây mê Hồi sức, Bệnh viện Ung Bướu 
TP. HCM từ tháng 10/2004 đến tháng 6/2006. 
Tiêu chuẩn lựa chọn 
+ Các bệnh nhân mổ với chẩn đoán ung thư gan nguyên phát. 
+ Phân loại thể trạng bệnh nhân trước mổ ASA I-III. 
+ Phân loại Child-Pugh A. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
+ Các trường hợp ung thư gan đã mổ tái phát. 
+ Xét nghiệm chức năng thận bất thường. 
Phương pháp nghiên cứu 
+ Tiền cứu ngẫu nhiên, mô tả và phân tích. 
+ Bệnh nhân được lựa chọn vào hai nhóm nghiên cứu: 
Nhóm Isoflurane: Duy trì mê bằng Isoflurane. 
Nhóm Sevoflurane: Duy trì mê bằng Sevoflurane. 
Bệnh nhân của cả hai nhóm đều được tiền mê và khởi mê giống nhau. 
+ Số liệu được ghi nhận vào phiếu theo dõi bệnh nhân. Nhập và xử lý 
số liệu bằng phần mềm SPSS 10.0 for Windows. Mối tương quan giữa hai 
biến số định tính được kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương (c2) và 
giữa hai biến định lượng bằng phép kiểm Student. p < 0,05 được chọn là có 
ý nghĩa thống kê, với độ tin cậy 95%. 
+ Kết quả kiểm định và phân tích được so sánh và bàn luận với kết 
quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Các đặc điểm chung của bệnh nhân. 
Từ tháng 10/2004 đến tháng 6/2006, chúng tôi đã thực hiện gây mê để 
mổ 98 bệnh nhân ung thư gan, số bệnh nhân trên được chia thành hai nhóm: 
+ Nhóm dùng Isoflurane: 49 trường hợp. 
+ Nhóm dùng Sevoflurane: 49 trường hợp. 
Bảng 1: Đặc điểm cuả nhóm bệnh nhân khảo sát. 
 Nhóm 
Sevoflurane 
Nhóm 
Isoflurane 
p 
Tuổi 
Trung bình 
47,4 ± 
13,8 
52,7± 
13,2 
0,069 
Giới 
Nam 
32 ca 32 ca 1,000 
Nữ 17 17 
Cân 
nặng Trung 
bình 
53,2 ± 
8,9 Kg 
53,8 ± 
9,7 Kg 
0,768 
ASA I 14 ca 17 ca 0,378 
 Nhóm 
Sevoflurane 
Nhóm 
Isoflurane 
p 
ASA 
II 
29 23 
ASA 
III 
6 9 
Child-
Pugh A 
49 ca 49 ca 1,000 
Cắt 
gan phải 
 0,801 
Cắt < 
1 hạ phân 
thùy 
10 ca 7 ca 
 Nhóm 
Sevoflurane 
Nhóm 
Isoflurane 
p 
Cắt 1-
2 hạ phân 
thùy 
10 10 
Cắt 3-
4 hạ phân 
thùy 
9 6 
Cắt 
gan trái 
 0,136 
Cắt < 
1 hạ phân 
thùy 
5 ca 10 ca 
Cắt 1- 5 3 
 Nhóm 
Sevoflurane 
Nhóm 
Isoflurane 
p 
2 hạ phân 
thùy 
Cắt 3-
4 hạ phân 
thùy 
9 4 
Thời 
gian phẫu 
thuật Trung 
bình 
67,9 ± 
20,3 phút 
71,4 ± 
26,0 phút 
0,487 
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm bệnh nhân khảo sát về các đặc 
điểm: tuổi, giới, cân nặng, nguy cơ phẫu thuật theo ASA và Child-Pugh, 
mức độ cắt gan và thời gian mổ. 
Diễn biến trong và ngay sau mổ 
Những thay đổi về huyết động trong lúc mổ 
Biểu đồ.1: Thay đổi về mạch trung bình (lần/phút) trong lúc mổ. 
Mạch trong lúc mổ giữa hai nhóm bệnh nhân không có thay đổi đáng 
kể, trừ thời điểm lúc cắt gan xong (T5) mạch trung bình của các bệnh nhân 
nhóm Sevoflurane có giảm hơn các bệnh nhân nhóm Isoflurane khoảng 6 
lần/phút (p = 0,015). 
Biểu đồ 2: Thay đổi về HA tâm thu trung bình (mmHg) trong lúc mổ. 
Huyết áp tâm thu trong lúc mổ giữa hai nhóm bệnh nhân không có 
thay đổi đáng kể, trừ thời điểm lúc bắt đầu cắt gan (T4) huyết áp tâm thu 
trung bình của các bệnh nhân nhóm Sevoflurane có giảm hơn các bệnh nhân 
nhóm Isoflurane 9 mmHg (p = 0,02). 
Biểu đồ 3: Thay đổi về HA tâm trương trung bình (mmHg) trong lúc 
mổ. 
Huyết áp tâm trương trung bình ở thời điểm sau khi rạch da (T3) và 
lúc bắt đầu cắt gan (T4) của các bệnh nhân nhóm Sevoflurane có giảm hơn 
các bệnh nhân nhóm Isoflurane khoảng 5 mmHg (p = 0,019 và 0,02). 
Những thay đổi về huyết động ngay sau mổ 
Bảng 2: Thay đổi về huyết động ngay sau mổ. 
 Nhóm 
Isoflurane 
Nhóm 
Sevoflurane 
p 
Vừa ra phòng hồi tỉnh 
Mạch 
(lần/phút) 
85,4 ± 
16,9 
86,0 ± 
15,2 
0,864
HA 
tâm thu 
(mmHg) 
146,0 
± 17,1 
136,8 
± 19,9 
0,021
HA 
tâm trương 
(mmHg) 
85,5 ± 
11,5 
81,6 ± 
11,2 
0,111
Sau khi rút NKQ 
Mạch 82,7 ± 87,4 ± 0,095
(lần/phút) 13,6 12,4 
HA 
tâm thu 
(mmHg) 
141,0 
± 13,2 
138,7 
± 17,1 
0,476
HA 
tâm trương 
(mmHg) 
82,5 ± 
7,8 
83,7 ± 
7,8 
0,472
Huyết áp tâm thu trung bình ở thời điểm bệnh nhân vừa chuyển ra 
phòng hồi tỉnh của các bệnh nhân nhóm Sevoflurane có giảm hơn các bệnh 
nhân nhóm Isoflurane 9 mmHg (p = 0,021). 
 Những thay đổi về chức năng gan, thận sau mổ 
Thay đổi về SGOT sau mổ: 
Bảng 3: Chênh lệch về SGOT (U/L) so với trước mổ. 
 Nhóm Nhóm p 
Isoflurane Sevoflurane 
Ngày 
hậu phẫu 1 
209,2 
± 183.0 
137,6 
± 124,6 
0,053
Ngày 
hậu phẫu 4 
30,8 ± 
51,3 
23,4 ± 
66,8 
0,576
Lượng SGOT ngày hậu phẫu 1 có tăng cao hơn nhiều so với trước mổ 
nhưng hầu hết vào ngày hậu phẫu 4 đều trở về gần như bằng với trước mổ. 
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm Isoflurane và Sevoflurane (p > 0,05). 
Thay đổi về SGPT sau mổ: 
Bảng 4: Chênh lệch về SGPT (U/L) so với trước mổ 
 Nhóm 
Isoflurane 
Nhóm 
Sevoflurane 
p 
Ngày 
hậu phẫu 1 
233,3 
± 253,6 
143,5 
± 146,8 
0,07 
Ngày 
hậu phẫu 4 
92,8 ± 
107,2 
45,5 ± 
57,3 
0,025 
Lượng SGPT ngày hậu phẫu 1 có tăng cao hơn nhiều so với trước mổ 
nhưng hầu hết vào ngày hậu phẫu 4 đều có khuynh hướng trở về bằng với 
trước mổ. Riêng lượng SGPT của nhóm Sevoflurane ở ngày hậu phẫu 4 thấp 
hơn đáng kể so với nhóm Isoflurane khoảng 47 U/L (p = 0,025). 
Thay đổi về các xét nghiệm chức năng gan khác sau mổ 
Lượng bilirubin toàn phần, Albimin, thời gian TQ, fibrinogen ngày 
hậu phẫu 1 và ngày hậu phẫu 4 không khác biệt đáng kể so với trước mổ. 
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm Isoflurane và Sevoflurane (p > 0,05). 
Thay đổi về creatinin sau mổ 
Bảng 5: Chênh lệch về creatinin (µmol/L) so với trước mổ. 
 Nhóm 
Isoflurane 
Nhóm 
Sevoflurane 
p 
Ngày 
hậu phẫu 1 
15,4 ± 
45,9 
0,9 ± 
27,6 
0,131
Ngày 
hậu phẫu 4 
-5,5 ± 
18,1 
-8,2 ± 
23,1 
0,578
Lượng creatinin ngày hậu phẫu 1 và ngày hậu phẫu 4 không khác biệt 
đáng kể so với trước mổ. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm Isoflurane và 
Sevoflurane (p > 0,05). 
 Chi phí thuốc mê 
Bảng 3.6: Chi phí thuốc mê mỗi bệnh nhân. 
 Chi phí thuốc mê 
mỗi bệnh nhân (đồng 
VN) 
Nhóm 
Isoflurane 
64.632 ± 26.831 
Nhóm 
Sevoflurane 
238.730 ± 74.533 
Mỗi bệnh nhân thuộc nhóm Sevoflurane phải chi phí về thuốc mê 
trung bình nhiều hơn mỗi bệnh nhân nhóm Isoflurane khoảng 170.000 đồng 
VN (p = 0,000). 
Chi phí được tính dựa theo công thức: 
Chi phí = Nồng độ x FGF x x x Thời gian gây mê trung 
bình với: 
FGF: lưu lượng khí mới. 
MW: trọng lượng phân tử (Sevoflurane là 200, Isoflurane là 185). 
D: tỉ trọng (Sevoflurane là 1,52, Isoflurane là 1,5). 
Giá một lọ Sevoflurane 250 ml là 2.700.000 đồng VN, một lọ 
Isoflurane 
 250 ml là 800.000 đồng VN. 
BÀN LUẬN 
Diễn biến trong và ngay sau mổ: 
Những thay đổi về huyết động trong và ngay sau mổ 
+ Theo Darlens B.(5), Isoflurane ức chế cơ tim vừa phải, tăng tần số 
tim, giảm huyết áp (phụ thuộc vào liều lượng) do dãn mạch ngoại vi, lưu 
lượng tim ít thay đổi, duy trì lưu lượng máu ở các vùng của cơ thể. 
Theo Clergne F.(4), Sevoflurane tác động trên tuần hoàn gần giống như 
Isoflurane, huyết áp hạ song song với độ sâu của mê, lưu lượng tim được 
duy trì với nồng độ thuốc mê vừa phải, tác dụng ức chế cơ tim được bù đắp 
bởi hiện tượng dãn mạch. 
* Trong loạt khảo sát này, tại thời điểm bệnh nhân vừa vào phòng mổ, 
mạch và huyết áp tâm thu trung bình của bệnh nhân nhóm Sevoflurane có hơi 
thấp hơn nhóm Isoflurane nhứng không đáng kể (p > 0,05), tuy nhiên huyết áp 
tâm trương trung bình của các bệnh nhân nhóm Sevoflurane lại thấp hơn nhóm 
Isoflurane đáng kể (80,4 mmHg so với 85,5 mmHg)(p = 0,028)(Biểu đồ 3.1, 
3.2 và 3.3). 
+ Theo Parks D.A.(8), tất cả các loại thuốc mê và các kỹ thuật gây mê 
làm giảm cung lượng tim đều làm giảm lưu lượng máu đến gan. Khi huyết 
áp trung bình giảm khoảng 40% vẫn chưa có sự thay đổi rõ ràng lượng máu 
đến gan do có sự bù trừ bằng sự tăng tỉ lệ lưu lượng máu đền từ tĩnh mạch 
cửa, tuy nhiên khi huyết áp giảm hơn nữa thì lưu lượng máu đến gan sẽ giảm 
đáng kể. 
Payen và cs đã chứng minh tác dụng gây tăng lưu lượng máu đến gan 
của Isoflurane trên cơ thể người bằng phương pháp Doppler mạch máu(8). 
* Trong loạt khảo sát này, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương 
trong lúc mổ của cả hai nhóm Isoflurane và Sevoflurane có giảm nhưng 
không vượt quá 20% so với thời điểm bệnh nhân vừa vào phòng mổ (Biểu 
đồ 3.2 và 3.3). Do vậy đều không làm giảm lưu lượng máu đến gan. Mạch, 
huyết áp tâm trương khi bệnh nhân vừa chuyển ra phòng hồi tỉnh và sau khi 
rút ống nội khí quản giữa hai nhóm Isoflurane và Sevoflurane không có sự 
khác biệt (p > 0,05). Huyết áp tâm thu trung bình khi bệnh nhân vừa chuyển 
ra phòng hồi tỉnh của các bệnh nhân nhóm Sevoflurane có giảm hơn các 
bệnh nhân nhóm Isoflurane (p = 0,021), nhưng không nhiều (chỉ 9 
mmHg)(Bảng 3.2). 
 Những thay đổi về chức năng gan sau mổ: 
Theo Reich H.M.(9), Isoflurane có cấu trúc methyl-ethyl tương tự 
Halothane nên có thể có phản ứng chéo gây viêm gan theo cơ chế miễn dịch 
tương tự Halothane dù rằng thực tế ít được ghi nhận. Sevoflurane được 
chuyển hóa theo cơ chế hoàn toàn khác nên an toàn hơn. 
Bito H. và Ikeda K.(2) đã thực hiện một nghiên cứu tác dụng của 
Sevoflurane và Isoflurane trên chức năng gan của 100 bệnh nhân, có ASA I 
hoặc II, chịu các cuộc mổ kéo dài 8-18 giờ; các xét nghiệm: bilirubin toàn 
phần và trực tiếp, SGOT và SGPT, phosphatase kiềm được thực hiện trước 
mổ và các ngày hậu phẫu 1, 2, 4, 7 và 14. Kết quả không ghi nhận sự khác 
biệt về chức năng gan sau mổ giữa hai nhóm Sevoflurane và Isoflurane. 
* Trong loạt khảo sát này, 
+ Lượng SGOT trung bình ngày hậu phẫu 1 có tăng cao hơn nhiều so 
với trước mổ nhưng hầu hết vào ngày hậu phẫu 4 đều trở về gần như bằng 
với trước mổ. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm Isoflurane và 
Sevoflurane (p > 0,05) (Bảng 3.3). Lượng SGPT trung bình cũng có kết quả 
tương tự, riêng lượng SGPT của nhóm Sevoflurane ở ngày hậu phẫu 4 thấp 
hơn đáng kể so với nhóm Isoflurane khoảng 47 U/L (p = 0,025)(Bảng 3.4). 
+ Các kết quả: bilirubin toàn phần, albumin, thời gian TQ, fibrinogen 
sau mổ đều cho thấy không có sự khác biệt so với trước mổ và không có 
khác biệt giữa hai nhóm Isoflurane và Sevoflurane (p > 0,05). 
Các trường hợp có lượng SGOT và SGPT cao sau mổ rất khó để phân 
biệt là hậu quả của viêm gan do thuốc hoặc do hoại tử gan sau mổ cắt gan. 
Viêm gan do Isoflurane rất hiếm (khoảng 1/300.000-1/500.000). Chưa thấy 
thông báo viêm gan do Sevoflurane(1). 
Sau mổ cắt gan ở bệnh nhân ung thư gan luôn phải cảnh giác các biến 
chứng suy tế bào gan, đặc biệt sau các trường hợp cắt gan lớn (cắt # 3 hạ 
phân thùy)(4). Các trường hợp có lượng bilirubin toàn phần tăng cao cũng 
khó có thể biết được là do hậu quả của viêm gan do thuốc hoặc hội chứng 
suy tế bào gan sau mổ. 
Những thay đổi về chức năng thận sau mổ 
Isoflurane làm giảm máu thận, giảm mức lọc cầu thận và giảm lượng 
nước tiểu(3). 
Theo Reichle H.M.(9), mặc dầu nhiều khảo sát trên động vật ghi nhận 
Sevoflurane gây độc cho thận, nhưng không có báo cáo nào ghi nhận có thay 
đổi chức năng thận trên bệnh nhân. 
Theo Abdel-Latif M.M.(1), khi khảo sát 35 bệnh nhân mổ các loại 
phẫu thuật tạo hình, Sevoflurane tạo ra nhiều ion fluo vô cơ hơn Isoflurane 
và vượt qua ngưỡng độc cho thận (50 µmol/L), tuy nhiên không gây ra rối 
loạn chức năng thận cả trên lâm sàng lẫn các xét nghiệm sinh hóa (urê và 
creatinin máu của cả hai nhóm bệnh nhân không khác biệt đáng kể, lượng 
nước tiểu trong và sau khi mổ của cả hai nhóm cũng tương tự nhau). 
* Trong loạt khảo sát này, lượng creatinin ngày hậu phẫu 1 và ngày 
hậu phẫu 4 không khác biệt đáng kể so với trước mổ. Không có sự khác biệt 
giữa hai nhóm Isoflurane và Sevoflurane (p > 0,05)(Bảng 3.5). 
Thuốc mê thích hợp cho bệnh nhân mổ ung thư gan tại Bệnh viện 
Ung Bướu TP. HCM 
Qua so sánh hai nhóm bệnh nhân được gây mê bằng Isoflurane và 
Sevoflurane, chúng tôi ghi nhận: 
+ Không có khác biệt đáng kể về huyết động trong và ngay sau khi 
mổ giữa hai nhóm. 
+ Các xét nghiệm chức năng gan và thận sau khi mổ giữa hai nhóm cũng 
không thấy có sự khác biệt. 
+ Mỗi bệnh nhân thuộc nhóm Sevoflurane phải chi phí về thuốc mê 
nhiều hơn mỗi bệnh nhân nhóm Isoflurane khoảng 170.000 đồng VN (p = 
0,000) (Bảng 3.6). 
Chênh lệch về chi phí để duy trì mê giữa hai nhóm có khác biệt đáng 
kể, tuy nhiên đó chỉ là một phần trong chi phí của cả cuộc mổ. Chi phí dùng 
cho kháng sinh sau mổ, nếu dùng ceftriaxone 1g/ngày trong 5-7 ngày, thì 
cũng đã lên đến 400.000-500.000 đồng VN; chưa tính đến các chi phí khác 
nữa. 
Tuy nhiên, để duy trì mê bằng Sevoflurane cần phải có bình bốc hơi 
riêng, mà giá của mỗi bình bốc hơi Sevoflurane là gần 4.000 USD. Đầu tư 
một số tiền lớn, đổi lại kết quả không có sự khác biệt rõ ràng là một điều cần 
phải cân nhắc. 
Tóm lại: 
Theo y văn, Sevoflurane tốt hơn Isoflurane về các điểm: mê nhanh, 
thời gian tác dụng ngắn, thức tỉnh nhanh, rút ống nội khí quản sớm; nên 
thuận lợi hơn Isoflurane trong phẫu thuật sọ não. Nhưng riêng trên bình diện 
huyết động lực và tác hại đối với gan, Sevoflurane không có sự khác biệt 
đáng kể so với Isoflurane. 
Trong điều kiện hiện nay của Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM: 
 + Bệnh nhân ung thư gan cần phẫu thuật ngày càng nhiều. 
 + Máy gây mê chuyên dùng cho Sevoflurane không có sẵn. 
 + Trên bình diện gây mê cho phẫu thuật ung thư gan, hai yếu tố 
nguy cơ cơ bản là giảm lưu lượng máu và tác hại của thuốc mê trong và sau 
khi mổ, qua 98 trường hợp nghiên cứu, nhận thấy không có sự khác biệt 
giữa Isoflurane và Sevoflurane. 
Do đó, chúng tôi vẫn mạnh dạn dùng Isoflurane trong gây mê phẫu 
thuật ung thư gan để phù hợp với tình hình thực tế của Bệnh viện. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 98 bệnh nhân ung thư gan nguyên phát được mổ tại 
Khoa Phẫu thuật-Gây mê Hồi sức, Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM, chúng 
tôi ghi nhận: 
So sánh giữa hai nhóm Sevoflurane và Isoflurane, không thấy sự khác 
biệt đáng kể về huyết động trong và ngay sau mổ, cũng như về tác hại của 
thuốc đối với chức năng gan và thận. 
Tận dụng những thuận lợi của Isoflurane tương đương với 
Sevoflurane, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của phẫu thuật cắt gan trên bệnh 
nhân ung thư gan, chúng tôi có cơ sở để sử dụng Isoflurane, phù hợp với 
hoàn cảnh của Bệnh viện Ung Bướu biện nay. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 147_5774.pdf 147_5774.pdf