Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua phương thức sản 
xuất tư bản chủ nghĩa với ý nghĩa bỏ quachế độ chính trị của chủ nghĩa tư 
bản. Nhưng trong điều kiện chủ trương một kinh tế hàng hóa nhiều thành 
phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhằm phát huy 
mọi tiềm năng các thành phần kinh tế,phát triển mạnh mẽ lực lượng sản 
xuất để xây dựng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, từng bước xã hội hóa 
chủ nghĩa. Trong đó kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữa vai trò chủ đạo 
có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện 
nay. 
Nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn 
phát triển tư bản chủ nghĩa, không có nghĩa là xóa bỏ các quan hệ sở hữu 
tư nhân về tư liệu sản xuất, mà chỉ phát triển sở hữu công cộng về tư liệu 
sản xuất. Hiện nay trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường 
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên việc duy trì và phát triển hình 
thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một yêu cầu khách quan mang 
tính qui luật. Bởi vì, trong giai đoạn đầucủa thời kỳ quá độ đi lên xã hội 
chủ nghĩa, thì sở hữu tư nhân như một bộ phận tự nhiên của quá trình kinh 
tế nhiều thành phần cũng có ý nghĩa thúc đẩy phát triển sản xuất nâng 
cao đời sống của nhân dân. Mặt khác, duy trì và phát triển kinh tế tư nhân 
(dưới mọi hình thức), thì đồng thời với nó là thu hút nguồn lực về vốn, về 
lao động, về quá trình chuyển giao công nghệ mới.Nhưng nó đều thông 
qua sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa 
sẽ giữa vai trò quyết định và điều tiếtchung đối với các hình thức sở hữu 
này phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 33 trang
33 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tài liệu ôn tập triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ù của nhà nước 
xã hội chủ nghĩa. 
*Trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, 
đườnglối đúng đắn của đảng và nhà nước ta có khả năng bảo đảm sự kết 
hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, giải 
quyết kịp thời những mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân, tạo những điều 
kiện thuận lợi để mỗi cá nhân có điều kiện phát triển toàn diện. Bên 
cạnh đó, việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành 
theo cơ chế thị trường đi đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà 
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa luôn đảm bảo công bằng về 
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, chống đặc quyền đặc lợi: phát 
huy yếu tố con người là mục đích cao nhất trong mọi hoạt động kinh tế, 
văn hóa, xã hội là một yêu cầu trong việc giải quyết đúng đắn mối quan 
hệ giữa cá nhân và xã hội ở nước ta hiện nay. 
*Kết cấu quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt quan hệ cơ bản sau: 
-Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xét vềmặt lịch sử quan hệ sở hữu về 
tư liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản, đó là sở hữu 
tư nhân và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân về tư liệu 
sản xuất là hình thức sở hữu mà các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội 
(không phải tất cả) thuộc về các chủ thể xã hội là cá nhân, hay một lực 
lượng xã hội nhất định, Điều đó có nghĩa là tư liệu sản xuất không thuộc 
về chung, của toàn xã hội. Xét về mặt bản chất hình thức sở hữu này là 
nguồn gốc của những quan hệ bóc lột, bất bình đẳng xã hội, là quan hệ 
người bóc lột người. Còn quan hệ sở hữu xã hội là hình thức tất cả các tư 
liệu sản xuất (chủ yếu) của xã hội thuộc về của chung, của toàn xã hội. 
Xét về mặt bản chất quan hệ sở hữu này là cơ sở cho quá trình xây dựng 
quan hệ bình đẳng và nó có khả năng xóa bỏ quan hệ bóc lột người.... 
-Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ này thể hiện sự giống nhau 
và khác nhau của các chủ thể xã hội về vai trò, vị trí, về quyền tổ chức 
quản lý sản xuất. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu 
đối với tư liệu sản xuất, Bởi vì, những chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản 
xuất chủ yếu của xã hội thì họ sẽ là người nắm vai trò tổ chức và quản lý 
sản xuất vật chất của xã hội. 
-Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ này thể hiện sự khác 
nhau và giống nhau của các chủ thể xã hội về mức hưởng thụ đối với sản 
phẩm vật chất của xã hội, cũng như quyền phân phối sản phẩm vật chất 
của xã hội. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với 
tư liệu sản xuất. Bởi vì, chủ thể xã hội nào nắm giữ tư liệu sản xuất thì 
đồng thời họ có mức hưởng thụ nhiều hơn, và là người có quyền quyết 
định phân phối sản phẩm vật chất của xã hội. 
*Trong ba mặt quan hệ của quan hệ sản xuất đều có sự tác động qua lại 
lẫn nhau. Nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ giữ vai trò 
quyết định trong quan hệ sản xuất. 
-Quan hệ phân phối sản phẩm lao động thể hiện sự khác nhau và giống 
nhau của các chủ thể xã hội về mức hưởng thụ đối với sản phẩm vật chất 
của xã hội. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với 
tư liệu sản xuất. Bởi vì, chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất thì đồng 
thời họ là người có mức hưởng thụ nhiều hơn, và là người có quyền quyết 
định phân phối sản phẩm vật chất của xã hội. 
-Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất là một qui luật chung nhất của sự phát triển xã 
hội. Sự tác động của qui luật này đã khẳng định tính tất yếu khách quan 
của sự phát triển xã hội từ phương thức sản xuất xã hội Nguyên thủy, 
Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và phương thức Cộng sản 
chủ nghĩa tương lai 
Câu 8: Phân Tích Vai Trò Của Quần Chúng Nhân Dân Trong Lịch Sử 
Và Việc Đảng Ta Chủ Trương Cách Mạng Và Sự Nghiệp Của Quần 
Chúng ? 
Vai Trò Của Quần Chúng Nhân Dân Trong Lịch Sử 
*Khái niệm quần chúng nhân dân thay đổi và phát triển có tính chất lịch 
sử. Bởi nó gắn liền với những hình thái kinh tế-xã hội và điều kiện lịch 
sử nhất định. Nhưng dù thay đổi và phát triển như thế nào thì nội dung 
khái niệm quần chúng nhân dân luôn được xác định bởi những nội dung 
sau đây: 
-Quần chúng nhân dân trước hết là những người lao động. Đó là những 
lực lượng lao động xã hội trực tiếp tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. 
-Quần chúng nhân dân, được thể hiện là những bộ phận dân cư có khuynh 
hướng luôn chống lại những giai cấp thống trị áp bức bóc lột mà lợi ích 
căn bản của những giai cấp ấy đối kháng với lợi ích đông đảo của nhân 
dân lao động. 
-Quần chúng nhân dân còn bao gồm các giai cấp và các tầng lớp xã hội 
có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội. 
Như vậy, nội dung khái niệm quần chúng nhân dân là rất rộng bao gồm 
nhiều lực lượng xã hội và hoạt động của họ trong nhiều lĩnh vực khác 
nhau. Nhưng hiểu theo nghĩa chung nhất là những lực lượng có ý nghĩa 
quyết định đi với sự tồn tại và phát triển của xã hội. 
Quần chúng nhân dân là những lực lượng xã hội có ý nghĩa quyết định 
đối với sự phát triển của xã hội, được thể hiện trong hoạt động sản xuất 
vật chất, trong đấu tranh xã hội và trong lĩnh vực tinh thần của xã hội. 
*Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân, lãnh tụ đối với sự 
phát triển của lịch sử, là sự khẳng định quần chúng nhân dân bao giờ 
cũng là người sáng tạo chân chính ra lịch sử còn vĩ nhân, lãnh tụ chỉ có ý 
nghĩa quan trọng. Nhưng ở trong những điều kiện lịch sử nhất định vĩ 
nhân, lãnh tụ có thể giữa vai trò “quyết định” đối với sự phát triển của 
lịch sử với ý nghĩa là người tạo ra những bước ngoặt vĩ đại của sự phát 
triển lịch sử, Nhưng xét cho cùng về lâu dài quần chúng nhân dân vẫn là 
người quyết định đối sự phát triển của lịch sử 
*Vai trò của quần chúng nhân dân bao giờ cũng là người sáng tạo chân 
chính ra lịch sử. *Xuất phát từ nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật 
lịch sử khẳng định rằng quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân 
chính ra lịch sử, được thể hiện với ba nội dung sau: 
-Vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động sản xuất vật chất của 
xã hội. Xuất phát từ nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho 
rằng sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội 
trong đó hoạt động của quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp tạo ra 
mọi của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động tạo ra của cải vật chất cho xã 
hội của quần chúng nhân dân đồng thời cũng có ý nghĩa quyết định cho 
việc tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Đó là quá trình hình thành 
phong tục tập quán, truyền thống và nền văn hóa dân tộc....đồng thời 
hoạt động của quần chúng nhân dân còn là đối tượng phục vụ của hoạt 
động văn hóa và tinh thần nói chung của xã hội. 
-Vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động đấu tranh xã hội với 
tính cách họ là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, chính 
trị và xã hội. Trong lĩnh vực này vai trò của quần chúng là lực lượng cơ 
bản của cuộc cách mạng xã hội, bởi vì Lênin đã từng khẳng định rằng sự 
nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Mặt khác, trong hoạt 
động đấu tranh xã hội vai trò của quần chúng nhân dân còn được thể hiện 
đối với quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc và cộng đồng 
dân tộc. 
-Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là mục đích 
cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Điều này có ý nghĩa là lợi ích chung 
của toàn bộ xã hội luôn là lợi ích chung của quần chúng nhân dân. Cho 
nên, lịch sử phát triển của xã hội và tiến bộ xã hội là việc nâng cao đời 
sống của quần chúng nhân dân, khẳng định vai trò của quần chúng nhân 
dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. 
Phân Tích Việc Đảng Chủ Trương Cách Mạng Và Sự Nghiệp Của Quần 
Chúng 
*Một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử khẵng 
định rằng quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử, 
được thể hiện với ba nội dung sau đây: 
-Vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động sản xuất vật chất của 
xã hội. Xuất phát những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử 
cho rằng sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội 
và trong đó hoạt động của quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp tạo 
ra mọi của cải vật chất cho xã hội. Hoạt động tạo ra của cải vật chất cho 
xã hội của quần chúng nhân dân đồng thời cũng có ý nghĩa quyết định 
cho việc tạo ra nhng giá trị tinh thần của xã hội. Đó là quá trình hình 
thành phong tục tập quán, truyền thống và nền văn hóa dân tộc....đồng 
thời hoạt động của quần chúng nhân dân còn là đối tượng phục vụ của 
hoạt động văn hóa và tinh thần nói chung của xã hội. 
-Vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động đấu tranh xã hội với 
tính cách họ là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, chính 
trị và xã hội. Trong lĩnh vực này vai trò của quần chúng là lực lượng cơ 
bản của các cuộc cách mạng xã hội, bởi vì Lênin khẳng định rằng sự 
nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Mặt khác, trong hoạt 
động đấu tranh xã hội vai trò quần chúng nhân dân còn được thể hiện đối 
với quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc và cộng đồng dân 
tộc. 
-Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là mục đích 
cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Điều này có nghĩa là lợi ích chung 
của toàn bộ xã hội luôn là lợi ích chung của quần chúng nhân dân. Cho 
nên, lịch sử phát triển của xã hội và tiến bộ xã hội là việc nâng cao đời 
sống của quần chúng nhân dân, khẳng định vai trò của quần chúng nhân 
dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. 
*Nội dung khái niệm quần chúng nhân dân là rất rộng bao gồm nhiều lực 
lượng xã hội và hoạt động của họ trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng 
hiểu thao nghĩa chung nhất là những lực lượng có ý nghĩa quyết định đi 
với sự tồn tại và phát triển xã hội. 
*Quần chúng nhân dân là những lực lượng xã hội có ý nghĩa quyết định 
đối với sự phát triển của xã hội, được thể hiện trong hoạt động sản xuất 
vật chất, trong đấu tranh xã hội và trong lĩnh vực tinh thần của xã hội. 
-Nghiên cứu lịch sử đấu tranh xã hội, những nhà kinh điển của chủ nghĩa 
Mác-Lênin cho rằng: bạo lực là điều kiện tiên quyết, tất yếu của các 
cuộc cách mạng xã hội. Một trong những điều kiện khách quan cho một 
cuộc cách mạng nổ ra và thành công đó là tính tích cực của quần chúng 
nhân dân được nâng cao...thấy phải tiến hành cách mạng và sẳn sàng hy 
sinh cho sự nghiệp cách mạng đó.Việc Đảng chủ trương cách mạng gắn 
liền với quần chúng nhân dân là một chủ trương đúng đắn mang đậm tính 
dân tộc Ỉ động lực cho công cuộc cách mạng thành công. 
Câu 9: Vai Trò Và Kết Cấu Của Yù Thức Xã Hội Và Việc Đảng Ta 
Chủ Trương Lấy Chủ Nghĩa Mác-Lênin Làm Kim Chỉ Nan Mọi Hoạt 
Động Cách Mạng Miền Nam ? 
Vai Trò Và Kết Cấu Của Yù Thức Xã Hội 
*Khái niệm ý thức xã hội: 
-Toàn bộ đời sống xã hội được chia thành hai lĩnh vực lớn: lĩnh vực vật 
chất và lĩnh vực tinh thần, đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cho nên ý 
thức xã hội có vai trò là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Ý thức xã 
hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác 
nhau, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng lý 
luận, hoặc tồn tại thông qua các hình thái ý thức xã hội cụ thể khác nhau 
như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức... 
Như vậy, ý thức xã hội trước hết là lĩnh vực tinh thần của xã hội. Ý thức 
xã hội chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội, nó là cái có sau, cái phụ thuộc 
vào tồn tại xã hội. Về mặt kết cấu ý thức thể hiện dưới nhiều cấp độ 
phản ánh khác nhau đối với tồn tại xã hội 
*Kết cấu của ý thức xã hội 
*Ý thức xã hội bao gồm nhiều cấp độ khác nhau: ý thức sinh hoạt đời 
thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng 
*Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận: 
-Sự phân chia ý thức xã hội thành ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý 
luận đó là sự đối lập giữa một bên là nhân sinh quan trong thực tiển cuộc 
sống chưa được hệ thống hóa, với bên kia là tập họp xã hội đã được 
nghiên cứu một cách sáng tạo, hệ thống thành lý luận thành các học 
thuyết. 
-Ý thức sinh hoạt đời thường là tính đầy đủ, toàn vẹn của cảm giác sống, 
nó gần và trực tiếp hơn với hiện thực cuộc sống, phản ánh tính chi tiết đa 
dạng và phong phú của cuộc sống hiện thực. Vì vậy, kinh nghiệm của ý 
thức sinh hoạt đời thường là kho tàng mà trong đó các khoa học cụ thể, 
triết học và nghệ thuật có thể tìm kiếm, khai thác theo những nội dung 
nhất định của mình. 
-Ý thức lý luận là toàn bộ những tư tưởng xã hội đã được khái quát hóa 
thành lý luận, thành các học thuyết về mọi lĩnh vực khác nhau trong cuộc 
sống xã hội một cách hợp lý, thành chỉnh thể trong những khoa học cụ 
thể, triết học, nghệ thuật, đạo đức, trong các học thuyết chính trị .... 
-Sự giống nhau của ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận ở chổâ 
đều là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, thể hiện sự tồn tại vận động 
và phát triển của ý thức xã hội, Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về 
tính chất, trình độ phản ánh và cấp độ về mặt kết cấu. Ý thức đời thường 
bao gồm nội dung rộng lớn của cuộc sống. Nhưng nó phản ánh tồn tại xã 
hội có tính chất tự phát hơn, nó chưa có tính hệ thống, tính hợp lý và khoa 
học. Còn ý thức lý luận là sự phản ánh mang tính hệ thống, tính hợp lý, 
tính bản chất và qui luật về hiện thực một cách trừu tượng, khái quát 
bằng các phạm trù và khái niệm khoa học. 
*Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng: 
-Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý thức sinh hoạt đời thường, 
trong đó xuất hiện những quan niệm về sự đánh giá đa dạng các hiện 
tượng xã hội, những thị hiếu và tư tưởng thẩm mỹ, phong tục và truyền 
thống, những thiên hướng và sự hứng thú, sự mơ ước.....Như vậy, tâm lý 
xã hội cũng là sự phản ánh trực tiếp điều kiện sinh sống hàng ngày, nó 
không có khả năng phản ánh bản chất và qui luật của hiện thực. Những 
quan niệm của con người ở trình độ tâm lý còn mang tính chất kinh 
nghiệm, cảm tính và cụ thể. 
-Hệ tư tưởng là một bộ phận ở cấp độ ý thức lý luận, bao gồm sự đánh 
giá có hệ thống về hiện thực xã hội trên lập trường quan điểm của một 
giai cấp, một chính đảng nhất định nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trị 
xã hội, xây dựng hệ thống những quan điểm về uy quyền của giai cấp, 
của đảng phái đó. Hệ tư tưởng có thể là hệ tư tưởng khoa học, cũng có 
thể là hệ tư tưởng phản khoa học. 
-Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có mối quan hệ tác động qua lại lẩn 
nhau vì chúng đều có chung một nguồn gốc là sự phản ánh tồn tại xã hội. 
Nhưng lại phản ánh dưới các bộ phận trong các cấp độ khác nhau của ý 
thức xã hội. Hệ tư tưởng phản ánh sâu sắc hơn về điều kiện sinh hoạt vật 
chất của xã hội, nếu tâm lý xã hội hình thành một cách trực tiếp, tự phát 
thì hệ tư tưởng cũng không thể hình thành một cách tự phát từ tâm lý xã 
hội. Nhưng tâm lý, tình cảm giai cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp 
thu hệ tư tưởng của giai cấp, ngược lại, hệ tư tưởng lại có ý nghĩa củng cố 
phát triển tâm lý, tình cảm giai cấp. 
*Tính giai cấp của ý thức xã hội: 
-Trong xã hội có giai cấp ý thức xã hội mang tính giai cấp, bởi vì nó đều 
phản ánh những quan hệ giai cấp, đấu tranh giai cấp cũng như ý thức của 
mổi một giai cấp nhất định cũng khác nhau thậm chí đối lập nhau. Tính 
giai cấp của ý thức xã hội thể hiện trong tất cả các mặt của đời sống tinh 
thần xã hội, ở ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận, ở tâm lý xã 
hội và hệ tư tưởng. 
-Tính giai cấp của ý thức xã hội không phủ nhận ý thức cá nhân, mà chi 
phối ý thức cá nhân. Nhưng ý thức cá nhân và ý thức xã hội là không 
thống nhất. Mỗi cá nhân đều có những điều kiện gia đình, nghề nghiệp, 
nhân cách, kinh nghiệm cuộc sống....Vì vậy, trong cùng một giai cấp ý 
thức cá nhân lại biểu hiện ý thức giai cấp ở dưới các mức độ và hình thức 
khác nhau, thậm chí có thể đối lập nhau. Nhưng tất cả mọi ý thức cá nhân 
trong cùng một giai cấp vẩn bị chi phối bởi tính giai cấp của hệ tư tưởng 
của giai cấp mình. 
-Trong các hình thái của ý thức xã hội mổi một hình thái đều phản ánh 
tính giai cấp của xã hội khác nhau, có những hình thái phản ánh trực tiếp 
và đồng thời là nội dung cơ bản của nó, ngược lại có những hình thái 
phản ánh gián tiếp nhưng hệ tư tưởng của những giai cấp thống trị luôn có 
mot vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. 
Việc Đảng Ta Chủ Trương Lấy Chủ Nghĩa Mác-Lênin Và Tư Tưởng Hồ 
Chí Minh Làm Kim Chỉ Nam Cho Mọi Hoạt Động Cách Mạng Việt Nam 
*Hệ tư tưởng chính trị: 
-Ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ kinh tế xã hội, phản ánh 
những lợi ích căn bản và địa vị của các giai cấp và mối liên hệ lẩn nhau 
của các giai cấp đó trong việc quản lý, bảo vệ đất nước... 
-Hệ tư tưởng chính trị phản ánh tồn tại xã hội về địa vị của một giai cấp 
nhất định một cách trực tiếp và sâu sắc nhất. Hệ tư tưởng chính trị của 
giai cấp thống trị có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Nó tác động trở 
lại cơ sở kinh tế thông qua các tổ chức nhà nước. Nó giữa vai trò chủ đạo 
trong đời sống tinh thần của xã hội và chi phối trực tiếp của mổi cá nhân 
cho đến các hình thái xã hội khác. Vai trò và tác dụng của hệ tư tưởng 
của một giai cấp nhất định do vai trò lịch sử của giai cấp đó quyết định và 
tùy thuộc theo những điều kiện lịch sử nhất định. 
*Chủ nghĩa Mác-Lênin là khoa học về các qui luật phát triển của tự 
nhiên và xã hội, khoa học về các mạng của quần chúng bị áp bức và bị 
bóc lột, khoa học về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng 
sản. Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho 
hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ 
nghĩa Mác-Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc 
lột người. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân 
dân ta tất nhiên phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hoạt 
động của Dảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận 
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của 
nước ta, mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào 
công nhân và chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta. Tư tưởng đó đã trở 
thành di sản tinh thần quý báu của Đảng của dân tộc ta. 
-Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp 
công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản lãnh đạo, đảm bảo 
cho nhân dân là người chủ thật sự của xã hội, quyền lực xã hội thuộc về 
nhân dân 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tai_lieu_on_tap_triet_hoc_9107.pdf tai_lieu_on_tap_triet_hoc_9107.pdf