Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về con đường vận hành của khí, nó xuất 
nhập từ Âm kinh sang Dương và từ Dương kinh sang Âm như thế nào ?”[1].
Bá Cao đáp : "Mỗi tuế có 12 nguyệt, mỗi nhật có 12 thời[2]. Trục tý và ngọ 
đóng vai kinh (đường thẳng đứng), trục mão và dậu đóng vai vĩ (đường nằm 
ngang)[3]. Thiên vận hành 1 vòng là hết 28 tú, mỗi diện (phương) gồm 7 tinh 
(sao), 4 lần 7 là tất cả 28 sao[4]. Phòng và Mão đóng vai vĩ, sao Hư và Trương 
đóng vai kinh[5]. Vì thế từ sao Phòng đến sao Tất thuộc Dương, từ sao Mão 
đến sao Tâm là thuộc Âm[6]. Dương chủ ban ngày, Âm chủ ban đêm[7]. Cho 
nên, sự vận hành của vệ khí, cứ mỗi ngày và mỗi đêm được 50 chu toàn thân: 
ban ngày nó vận hành ở Dương phận 25 chu, ban đêm nó vận hành ở Âm phận 
25 chu, đi khắp ngũ tạng[8]. 
Cho nên, sáng sớm thì Âm khí tận, Dương khí (nhận khí từ Âm) để xuất ra ở 
huyệt Tinh Minh (khoé mắt trong)[9]. Khi ta mở mắt ra thì vệ khí bắt đầu đi 
lên trên đầu, dọc theo cổ gáy rồi theo con đường của túc Thái dương Bàng 
quang kinh mà xuống dưới, dọc theo lưng, xuống đến đầu ngón chân út huyệt 
Chí Âm[10]. Con đường tán hành mở rộng khắp của nó, tách biệt để đi từ khoé 
mắt ngoài đi xuống dưới theo con đường của thủ Thái dương kinh, xuống đến 
mép ngoài của ngón tay út huyệt Thiếu Trạch[11].
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0
              
            Nội dung tài liệu Thiên 76: vệ khí hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THIÊN 76: VỆ KHÍ HÀNH 
Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe về con đường vận hành của khí, nó xuất 
nhập từ Âm kinh sang Dương và từ Dương kinh sang Âm như thế nào ?”[1]. 
Bá Cao đáp : "Mỗi tuế có 12 nguyệt, mỗi nhật có 12 thời[2]. Trục tý và ngọ 
đóng vai kinh (đường thẳng đứng), trục mão và dậu đóng vai vĩ (đường nằm 
ngang)[3]. Thiên vận hành 1 vòng là hết 28 tú, mỗi diện (phương) gồm 7 tinh 
(sao), 4 lần 7 là tất cả 28 sao[4]. Phòng và Mão đóng vai vĩ, sao Hư và Trương 
đóng vai kinh[5]. Vì thế từ sao Phòng đến sao Tất thuộc Dương, từ sao Mão 
đến sao Tâm là thuộc Âm[6]. Dương chủ ban ngày, Âm chủ ban đêm[7]. Cho 
nên, sự vận hành của vệ khí, cứ mỗi ngày và mỗi đêm được 50 chu toàn thân: 
ban ngày nó vận hành ở Dương phận 25 chu, ban đêm nó vận hành ở Âm phận 
25 chu, đi khắp ngũ tạng[8]. 
Cho nên, sáng sớm thì Âm khí tận, Dương khí (nhận khí từ Âm) để xuất ra ở 
huyệt Tinh Minh (khoé mắt trong)[9]. Khi ta mở mắt ra thì vệ khí bắt đầu đi 
lên trên đầu, dọc theo cổ gáy rồi theo con đường của túc Thái dương Bàng 
quang kinh mà xuống dưới, dọc theo lưng, xuống đến đầu ngón chân út huyệt 
Chí Âm[10]. Con đường tán hành mở rộng khắp của nó, tách biệt để đi từ khoé 
mắt ngoài đi xuống dưới theo con đường của thủ Thái dương kinh, xuống đến 
mép ngoài của ngón tay út huyệt Thiếu Trạch[11]. Con đường tán hành của nó 
tách biệt để đi từ khoé mắt ngoài, đi xuống dưới theo con đường của túc Thiếu 
dương kinh, rót vào trong khoảng ngón chân út và áp út huyệt Khiếu Âm, nó 
lại đi lên dọc theo mép cạnh của thủ Thiếu dương kinh, xuống dưới đến 
khoảng ngón tay út và áp út huyệt Quan Xung[12]. Con đường biệt hành nữa 
lên đến vùng trước tai, hợp với vùng thuộc huyệt Thừa Khấp và Giáp Xa, rồi 
rót vào túc Dương minh kinh để đi xuống dưới đến mu bàn chân rồi nhập vào 
khoảng huyệt Lệ Đoài[13]. Con đường tán hành của nó đi từ dưới tai xuống 
dưới theo con đường của thủ Dương minh kinh, nhập vào trong khoảng ngón 
tay cái, rồi nhập vào trong lòng bàn tay[14]. Riêng con đường đi xuống đến 
dưới chân, nó sẽ nhập vào giữa Tâm của bàn chân, xuất ra ở mắt cá trong, 
xuống dưới vùng Âm phận, sau đó nó lại quay trở lên để hợp với khoé mắt 
trong, Ta gọi đó là 1 chu[15]. 
Cho nên, nhật hành 1 xá (tú: 1 sao), thì nhân khí vận hành 1 chu lẻ 8/10 trong 
thân người, nhật hành 2 xá thì nhân khí vận hành 3 chu lẻ 6/10, nhật hành 3 xá 
thì nhân khí vận hành 5 chu lẻ 4/10, nhật hành 4 xá thì nhân khí vận hành 7 chu 
lẻ 2/10, nhật hành 5 xá thì nhân khí vận hành 9 chu, nhật hành 6 xá thì nhân 
khí vận hành 10 chu lẻ 8/10, nhật hành 7 xá thì nhân khí vận hành 12 chu lẻ 
6/10, nhật hành 14 xá thì nhân khí vận hành 25 chu lẻ 2/10[16]. Thế là Dương 
tận ở Âm, còn Âm thì nhận lấy khí[17]. Khi mà khí bắt đầu nhập vào Âm, 
thường là đi từ túc Thiếu âm kinh để rót vào Thận, Thận lại rót vào Tâm, Tâm 
lại rót vào Phế, Phế lại rót vào Can, Can lại rót vào Ty,. Tỳ trở lại rót vào 
Thận, thế là tròn 1 chu[18]. Cũng vì thế, nếu dạ hành 1 xá, nhân khí cũng vận 
hành trong các Âm tạng (Âm kinh) đủ 1 chu và lẻ 8/10 (như ở Dương kinh), 
rồi nó cũng như ở Dương kinh vận hành đủ 25 chu, để rồi cuối cùng lại hợp 
nhau tại khoé mắt trong huyệt Tinh minh. Mỗi 1 nhật và 1 dạ, khí vận hành ở 
Dương phận và Âm phận đúng 50 chu lẻ ra 4/10, bởi vì nó vận hành Âm phận 
cũng phải lẻ ra 2/10, Vì thế, con người lúc ngủ lúc thức có sớm có muộn khác 
nhau, vì thế trong cách tính phải có số lẻ dư ra”[18]. 
Hoàng Đế hỏi: "Vệ khí vận hành ở thân thể, lên xuống, vãng lai không theo 1 
thời gian cố định nào, như vậy muốn chờ đợi khí vận hành để mà tiến hành 
châm trị, phải làm sao?”[19] 
Bá Cao đáp : “Thiên vận hành với những phân độ nhiều ít khác nhau, thời gian 
ban ngày có khi ngắn có khi dài, bốn mùa xuân thu đông hạ tùy theo sự tiêu 
trưởng của ngày đêm mà quy định dài hay ngắn[20]. Sau đó, ta dựa vào sáng 
sớm làm tiêu chuẩn cho ban ngày, lại dựa vào đêm tàn để biết rằng vệ khí bắt 
đầu vận hành ở Dương phận[21]. Vì thế, mỗi ngày và mỗi đêm, nước chảy 
xuống 10 khắc, 25 khắc đúng lànửa ngày, cứ thường như thế không ngưng 
nghỉ, đến lúc mặt trời lặn thì xem như dứt 1 ngày[22]. Chúng ta theo dõi sự dài 
ngắn của nhật nhập và nhật xuất, rồi dựa vào đó để làm tiêu chuẩn ngày đêm 
để tiến hành việc châm trị cho đúng thời[23]. Nếu chúng ta cẩn thận chờ đợi 
đúng thời của khí để châm trị, ta có thể đoán định thời gian chữa trị cho lành 
bệnh, còn nếu ta làm mất đi cái thời và nghịch lại với thời lệnh của 4 mùa thì 
trăm bệnh sẽ không trị được[24]. Cho nên nói rằng: châm trị hư chứng, nên 
châm theo phép ‘tùy nhi tế chi’ (rượt theo nó để bổ)[25]. Đây nói về việc bổ tả 
trước hay sau để biết được khí còn hay đã tiêu trừ, từ đó ta mới chờ đợi khí hư 
hay thực để mà châm trị[26]. Vì thế phương pháp chờ đợi để biết được bộ vị 
của khí đang ở đâu để tiến hành việc châm trị, đó gọi là phùng thời (gặp đúng 
với thời)[27]. Nói rõ hơn, nếu bệnh đang ở tam Dương kinh, ta nên chờ đợi khi 
nào khí cũng đang ở Dương phận để châm, nếu bệnh đang ở tam Âm kinh, ta 
nên chờ đợi khi nào khí cũng đang ở Âm phận để châm”[28]. 
Nước chảy xuống (đồng hồ) 1 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái dương[29], 
nước chảy xuống 2 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu dương[30], nước chảy 
xuống 3 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[31], nước chảy xuống 4 khắc 
thì nhân khí ở tại Âm phận nơi túc Thiếu âm Thận[32], nước chảy xuống 5 
khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[33], nước chảy xuống 6 khắc thì nhân 
khí ở tại kinh Thiếu Dương[34], nước chảy xuống 7 khắc thì nhân khí ở tại 
kinh Dương minh[35], nước chảy xuống 8 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận 
Thận kinh[36], nước chảy xuống 9 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái 
Dương[37], nước chảy xuống 10 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu 
Dương[38], nước chảy xuống 11 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[39], 
nước chảy xuống 12 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận[40], nước chảy xuống 13 
khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[41], nước chảy xuống 14 khắc thì 
nhân khí ở tại kinh Thiếu Dương[42], nước chảy xuống 15 khắc thì nhân khí ở 
tại kinh Dương minh[43], nước chảy xuống 16 khắc thì nhân khí ở tại Âm 
phận[44], nước chảy xuống 17 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[45], 
nước chảy xuống 18 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thiếu Dương[46], nước chảy 
xuống 19 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương minh[47], nước chảy xuống 20 
khắc thì nhân khí ở tại Âm phận[48], nước chảy xuống 21 khắc thì nhân khí ở 
tại kinh Thái Dương[49], nước chảy xuống 22 khắc thì nhân khí ở tại kinh 
Thiếu Dương[50], nước chảy xuống 23 khắc thì nhân khí ở tại kinh Dương 
minh[51], nước chảy xuống 24 khắc thì nhân khí ở tại Âm phận[55], nước chảy 
xuống 25 khắc thì nhân khí ở tại kinh Thái Dương[56]. Đây chính là độ số mà 
vệ khí vận hành trong nửa ngày[57]. Từ sao Phòng đến sao Tất, 14 xá, nước 
chảy xuống 50 khắc, xem như là 1/2 độ của tròn ngày đêm[58]. Khi nhật vận 
hành 1 xá, thời gian sẽ là nước chảy xuống 3 khắc 4/7[59]. Kinh Đại yếu xưa 
có nói: Thường thì nhật hành mỗi tú trong 28 tú, vệ khí nhất định phải ở Thái 
dương[60]. Như vậy, cứ mỗi lần nhật hành 1 xá thì nhân khí theo thứ tự ở tam 
Dương kinh rồi đến Âm phận, cứ như thế mà không ngừng nghỉ, Thiên hay Địa 
(Dương hay Âm đều như thế), tất cả đều rất trật tự, chung rồi lại thỉ, một ngày 
một đêm, nước cứ chảy 100 khắc vô tận vậy”[61] 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
thien_76_5806.pdf