Hoàng Đế hỏi rằng:
Tôi nghe: phong là một thứ bắt đầu sinh ra trăm bệnh. Dùng châm để điều trị, 
nên như thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Phong từ ngoài vào, khiến người rét run, hãn ra, đầu nhức mình nặng, ố hàn. 
Nên trị tại Phong phủ, làm cho âm dương điều hòa. Bất túc thời bổ, hữu dư 
thời tả [2].
Đại phong phạm vào người, khiến cho gáy, cổ đau, nên thích ở Phong phủ. 
Huyệt Phong phủ tại thượng trùy (Phong phủ tức là huyệt của Đốc mạch) [3].
Đại phong phạm vào người, hãn ra. Cứu ở huyệt Y hy. Huyệt Y hy tại dưới 
bối cách đường xương sống 3 tấc, lấy tay áp mạnh vào, bảo bệnh nhân kêu to 
lên hai tiếng “y hy”, huyệt sẽ bật lên ở dưới tay [4].
Nếu thấy gió mà ghê gió, thích ở đầu lông mày [5].
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Thiên sáu mươi: cốt không luận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thiên sáu mươi: CỐT KHÔNG LUẬN 
Hoàng Đế hỏi rằng: 
Tôi nghe: phong là một thứ bắt đầu sinh ra trăm bệnh. Dùng châm để điều trị, 
nên như thế nào? [1] 
Kỳ Bá thưa rằng: 
Phong từ ngoài vào, khiến người rét run, hãn ra, đầu nhức mình nặng, ố hàn. 
Nên trị tại Phong phủ, làm cho âm dương điều hòa. Bất túc thời bổ, hữu dư 
thời tả [2]. 
 Đại phong phạm vào người, khiến cho gáy, cổ đau, nên thích ở Phong phủ. 
Huyệt Phong phủ tại thượng trùy (Phong phủ tức là huyệt của Đốc mạch) [3]. 
 Đại phong phạm vào người, hãn ra. Cứu ở huyệt Y hy. Huyệt Y hy tại dưới 
bối cách đường xương sống 3 tấc, lấy tay áp mạnh vào, bảo bệnh nhân kêu to 
lên hai tiếng “y hy”, huyệt sẽ bật lên ở dưới tay [4]. 
Nếu thấy gió mà ghê gió, thích ở đầu lông mày [5]. 
 Nếu gáy đau không gối được, thích khoảng Hoành cốt tại trên vai [6]. 
 Nếu lưng đau như gãy xuống, dùng tay buông thõng xuống, ngang với đầu 
khủyu tay, chiếu ra xương sống, sẽ cứu ở đấy [7]. 
Đau ở Diểu lạc, qúi hiếp, lan ra Thiếu phúc, vừa đau vừa, trướng, thích ở huyệt 
Y hy [8]. 
“Yêu” đau không thể cúi ngửa, đau rút xuống âm nóãn, thích luật biểu ở phận 
giác ở lưng [9]. 
 Chứng Thử lậu, phát hàn nhiệt, thích ở Hàn phủ. Huyệt Hàn phủ tại gần huyệt 
Giải vinh ở đầu gối. Nếu muốn lấy huyệt Uûy trung tại sau gối (khuỷu, kheo) 
thời bảo đứng “vái” (Vì đứng vái thì ưỡn thẳng kheo ra, dễ lấy huyệt), muốn 
lấy ở túc tâm thời bảo quì (túc tâm tức là huyệt Dũng toàn. Quì thời chia hẳn 
lòng bàn chân ra, thấy được huyết ngay) [10]. 
 Nhâm mạch phát sinh từ phía dưới Trung cực lên tới Mao tế, vòng phúc lý, lên 
quan nguyên, đến Yết hầu, qua mép vòng lên mắt [11]. 
 Xung mạch phát sinh từ Khí nhai, cùng với kinh Thiếu âm qua Tể dẫn lên, đến 
Hung thời chia đi [12]. 
 Nhâm mạch mắc bệnh, ở con trai bên trong kết thành bảy chứng Sáu, ở con 
gái, sinh chứng Đái hạ và Giả tụ [13]. 
Xung mạch mắc bệnh, khí nghịch và lý cấp [14]. 
 Đốc mạch mắc bệnh, xương sống cứng và đau như gãy [15]. 
 Đốc mạch phát sinh từ Thiếu phúc, ở khoảng giữa hạ cốt [16]. 
 Về con gái, buộc vào Đình khổng (tức âm hộ), chỗ, “khổng” đó, tức là gốc của 
Niệu khổng. Lạc của nó, vòng âm khi, hợp với Thoán gian, quanh ra Thoán 
hậu, chằng xuống diễn, đến thiếu âm với Cự dương. Về trung lạch hợp với 
Thiếu âm, dẫn lên phía sau vế, xuất lên “tích” rồi nóái vào Thận. Cùng với 
mạch của kinh Thái dương khởi ở phía trong đầu mắt, lên trán, qua đỉnh đầu, 
chằng vào óc, rồi quanh xuống cổ, vòng xuống vai, qua tích đến yêu, giáp với 
Lữ và chằng vào Thận [17]. 
 Về con trai, theo hành (tức sinh thực khí) đến Thoán, cũng giống con gái. Một 
đường do Thiếu phục dẫn lên, qua giữa rốn, suốt Tâm, tới Hầu, lên mép, vòng 
môi rồi buộc lên phía dưới hai mắt [18]. 
 Bệnh phát sinh ở mạch nầy, từ Thiếu phúc xung lên Tâm mà đau, không đại 
tiểu được, đó gọi là Xung sán, ở con gái thời không thụ thai. Nếu phát ở tiền, 
hậu âm thời sẽ là các chứng long (tiểu buốt). Trĩ, di nịch, và ách can [19]. 
 Đốc mạch phát bệnh, trị ở Đốc mạch, huyệt tại cốt thượng, quá lắm thời thích 
ở Tề hạ Doanh [20]. 
 Nếu thượng khí trở thành tiếng, trị ở giữa Hầu, hoặc tại giữa Khuyết Bổn. Nếu 
bệnh xung lên Hầu, nên trị ở Tiệm. Tiệm là nơi phân chi của Đốc mạch, ở gần 
mép [21]. 
 Đầu gối như bận bịu khó co duỗi, nên trị ở “Kiền”, ngồi mà đầu gối đau, nên 
trị ở “Cơ” (Kiền với Cơ tức là chỗ cơ quan, khớp xương) [22]. 
 Đứng mà thấy nóng ở trong xương, nên trị ở Hài gian [23]. 
 Đầu gối đau, đau suốt xuống ngón chân cái, nên trị ở quắc trung [24]. 
 Ngồi mà đầu gối đau như vật gì bám vào nên trị ở quan [25]. 
 Đầu gối đau không thể co duỗi nên trị ở Bối nóäi [26]. 
 Đầu gối đau suốt xương ống như muốn gãy, trị ở Dương minh Trung du dao. 
 Nếu muốn trị sang nơi khác thời trị ở Cự dương, Thiếu âm Doanh [27]. 
 Oáng chân đau nhức không thể đứng lâu, trị ở Duy của Thiếu dương, huyệt 
này tại trên Ngoại khỏa 5 tấc Quang minh [29]. 
 Trên Phụ cốt, dưới Hoành cốt là Kiền, giáp Khoan là Cơ. Tất giải là Hài quan, 
cái xương liền với gối là Liên hài, trên Hài là Phụ, trên Phụ là Quắc. Trên Quắc 
là quan, xương nằm ngang phía sau đầy là Chẩm [30]. 
Thủy du có năm mươi bảy huyệt là: trên chân có 5 hàng, mỗi hàng 5 huyệt, 
trên Phục thổ có 2 hàng, mỗi hàng 5 huyệt, tả hữu mỗi bên đều có một hàng, 
mỗi hàng 5 huyệt, trên khỏa đều có một hàng, mỗi hàng có 6 huyệt [31]. 
Huyệt Tủy không, tại sau Não, 3 phân, và tại dưới Lô tế, Nhuệ cốt. Một đường 
tại dưới ngân cơ, một đường tại dưới Trung phục cốt phía sau cổ; một đường 
tại nơi rỗng không ở Tích cốt; và tại trên phong phủ dưới nơi rỗng không ở 
Tích cốt, lại ở nơi rỗng không tại dưới Cầu cốt [32]. Vài huyệt Tủy không tại 
mặt gần mũi hoặc miệng, xuống gần hai vai [33]. Cốt không ở hai bắp tay, tại 
cảnh bắp tay [34]. Tý cốt không ở cạnh Tý, cách khỏa 4 tấc, ở vào khoảng giữa 
hai cốt không [35]. Cốt không của vế cạnh Vế, phía trên gối 4 tấc. Yêu tế cốt 
không tại phía động mạch áp chân lông [36]. Cầu cốt không tại phía sau Bễ 
cốt, cách nhau 4 tấc [37]. Biển cốt (thứ xương giẹp, như xương mặt, không có 
Tủy khổng, không có dịch tủy (thay đổi tủy) nhưng bên ngoài cũng cân mạc và 
các chất thấm nhuần, một loại với các xương khác [38]. 
Về phép cứu chứng hàn nhiệt, trước cứu Đại trùy ở cổ, tính theo tuổi làm 
“tráng” (mỗi lượt gọi là mỗi tráng, như 10 tuổi thì 10 tráng v.v). Rồi cứu đến 
quyết cốt (tức Vĩ cùng, đều thuộc Đốc mạch), cũng tính “tráng” như trên. 
Trông xem chỗ lõm ở Bối du, để cứu ở đó. Cứu ở đầu Hoa cốt trên ngoại khỏa. 
Cứu ở khe ngón chân út với ngón vô danh giáp nhau. Cứu ở hãm mạch dưới 
bộng chân. Cứu ở phía sau ngoại khỏa. Aùn tay vào trên xương Khuyết bồn, 
thấy cứng và đau như mới có cai gân nóåi lên, nên Cứu ngay ở đó. Cứu ở 
khoảng hãm cốt tại Ưng trung. Cứu ở dưới Thúc cốt tại bàn tay. Cứu ở dưới 3 
tấc huyệt quan nguyệt tại dưới rốn. Cứu ở Động mạch tại mao tế. Cứu ở dưới 
xương đầu gối 3 tấc. Cứu ở động mạch thuộc Túc Dương minh tại trên xương 
khoai. Cứu ở đỉnh đầu một tráng. Nơi chó cắn, Cứu 3 tráng, đó tức là lấy 
phương pháp, trị bệnh chó cắn để cứu (1) [39]. 
Phàm nên cứu, tổng cộng 29 huyệt, Lại có thể dùng phương pháp Cứu thương 
thực để Cứu (2) [40]. 
Nếu chưa khỏi, nên nhằm cái kinh của nó hướng về Dương, thời nên luôn thích 
ở Du, và cho uống thuốc thêm (3) [41]. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 thien_sau_muoi_4175.pdf thien_sau_muoi_4175.pdf