I. Định nghĩa: 
Thụtinh trong ống nghiệm là quá trình kết hợp giữa tinh trùng với 
trứng đểtạo ra hợp tử ởngoài cơthểmẹ- trong phòng thí nghiệm- với môi 
trường sinh học nhân tạo có các điều kiện thích hợp như: nhiệt độ, độ ẩm, 
độnhớt, độpH, áp suất thẩm thấu các chất dinh dưỡng, các chất kích thích, 
các ion cùng với các chỉtiêu sinh học khác gần giống nhưtrong cơthể
mẹ. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 48 trang
48 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Thụ tinh trong ống nghiệm ở heo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM Ở HEO. 
A. ĐỊNH NGHĨA VÀ LỢI ÍCH CỦA IVF. 
I. Định nghĩa: 
Thụ tinh trong ống nghiệm là quá trình kết hợp giữa tinh trùng với 
trứng để tạo ra hợp tử ở ngoài cơ thể mẹ - trong phòng thí nghiệm- với môi 
trường sinh học nhân tạo có các điều kiện thích hợp như : nhiệt độ, độ ẩm, 
độ nhớt, độ pH, áp suất thẩm thấu các chất dinh dưỡng, các chất kích thích, 
các ion… cùng với các chỉ tiêu sinh học khác gần giống như trong cơ thể 
mẹ. 
II.Lợi ích của IVF 
Trên thế giới và cũng như ở Việt Nam, quá trình giao phối tự nhiên ở 
động vật gần như ngày càng bị thay thế bởi quá trình IVF vì: 
1. Cải thiện di truyền 
* Cho phép sử dụng rộng rãi những đực giống nổi tiếng (năng suất cao) và 
phổ biến nguyên liệu di truyền có giá trị đến tận từng hộ hoặc từng trại chăn 
nuôi, từ đó cải thiện được năng suất các thế hệ đời sau. 
* Bằng kỹ thuật IVF có thể làm dễ dàng hơn việc kiểm tra năng suất qua đời 
sau trong những điều kiện về môi trường và quản lý khác biệt nhau, nhờ đó 
tiếp tục nâng cao tốc độ và hiệu quả của việc chọn lọc. 
* Cải thiện được năng suất và tiềm năng của đàn gia súc địa phương, giúp 
cho việc xây dựng một chính sách, chủ trương về công tác giống của quốc 
gia. 
* Cho phép sử dụng tinh dịch đông lạnh của những đực giống cao sản (thậm 
chí khi chúng đã chết). 
* Thúc đẩy việc nhập nội nguyên liệu di truyền mới thông qua việc nhập 
tinh dịch và giảm thấp được chi phí vận chuyển quốc tế (nhờ không nhập 
đực giống). 
2. An toàn dịch bệnh : 
* Khống chế được lây lan dịch bệnh thông qua giao cấu hoặc do tiếp xúc 
giữa đực và cái. 
* Không du nhập bệnh mới nhờ không nhập đực giống. 
 1
3. Việc theo dõi, ghi chép lai lịch trong công tác quản lý giống sẽ chính 
xác và nhẹ nhàng. 
Cho phép dễ dàng lai tạo để thay đổi hướng sản xuất, ví dụ có thể lai tạo để 
có những con vật kiêm dụng hoặc chuyên dụng tùy theo mục tiêu sản xuất. 
4. Tăng nhanh và nhiều số gia súc cái do 1 đực giống phụ trách. Một trâu 
bò hoặc 1 heo đực giống mỗi năm có thể truyền giống trực tiếp cho 50 - 100 
con cái trên một địa bàn nhất định. Nếu lấy tinh đực giống để sử dụng ở 
dạng tinh dịch lỏng, mỗi năm 1 heo đực có thể phục vụ cho trên 1000 heo 
cái, 1 trâu bò đực giống có thể phục vụ 3000 - 5000 trâu bò cái trở lên (có 
những con đến 100.000). 
Như vậy số đực giống cần nuôi sẽ được giảm thấp, từ đó có điều kiện chọn 
lọc chỉ giữ lại những con tốt và giảm được chi phí chăn nuôi, chuồng trại, 
tiết kiệm về kinh tế. 
5. Hạn chế những khó khăn hoặc nguy hiểm trong giao phối tự nhiên mà 
nguyên nhân thường từ phía con đực. Ví dụ : 
* Ðực giống có thể trọng quá lớn so với con cái; 
* Ðực giống hung dữ gây tổn thương cho con cái; 
* Ðực giống bị què, đau chân không nhảy ôm được con cái v.v... 
6. IVF đặc biệt cần thiết khi kết hợp với kế hoạch gây động dục đồng loạt. 
Nó cũng được xem là một biện pháp cần thiết khi kiểm tra tính biệt thông 
qua việc tách riêng những tinh trùng có mang nhiễm sắc thể X hoặc Y, cũng 
như cần thiết cho việc nghiên cứu những đặc điểm sinh lý sinh sản của con 
đực và con cái và phục vụ cho việc thụ tinh trong ống nghiệm. 
 2
B. SINH LÝ SINH DỤC LỢN 
 I. LỢN ĐỰC: 
 1. Đặc điểm cấu tạo cơ quan sinh dục lợn đực giống 
Cơ quan sinh dục của lợn đực giống gồm: Dịch hoàn, dịch hoàn phụ, 
ống xuất tinh, các tuyến sinh dục phụ (tinh nang, tiền liệt tuyến, cao-pơ) và 
cơ quan giao phối. 
 a. Dịch hoàn: 
Lợn đực có hai dịch hoàn hình quả trứng nằm trong bao dịch 
hoàn. 
Bên trong của dịch hoàn gồm nhiều vách ngăn, chia dịch hoàn 
thành nhiều ô nhỏ, trong những ô đó lại có vô số những ống sinh tinh 
nhỏ, những ống sinh tinh này tập trung lại thành các ống sinh tinh lớn 
hơn và đi vào giữa dịch hoàn tạo thành thể mạng lưới. 
Nhiệm vụ của dịch hoàn là sản xuất tinh dịch và các kích tố 
sinh dục đực. Tinh trùng được sản xuất trong các ống sinh tinh nhỏ, 
còn kích tố sinh dục đực được sản sinh trong các tế bào kẽ của dịch 
hoàn. 
Cấu tạo dịch hoàn 
 3
b. Dịch hoàn phụ 
Dịch hoàn phụ là tập hợp các ống sinh tinh để cuối cùng quy tụ thành 
một ống duy nhất. Một đầu nối liền với đầu của ống dẫn tinh, đầu kia nối 
liền với ống sinh tinh nhỏ của dịch hoàn. 
Dịch hoàn phụ là nơi cất giữ tinh trùng, ở đó tinh trùng có thể sống 
được 1 -2 tháng, dịch hoàn phụ có thể dự trữ được khoảng 200 tỷ tinh trùng 
(70% nằm ở đuôi dịch hoàn phụ). 
 c. Ống xuất tinh 
Ống xuất tinh làm nhiệm vụ chính đưa tinh trùng ra ngoài. Vách ống 
là một loại cơ trơn hoạt động rất mạnh, khi cơ trơn co bóp thì tinh trùng bị 
đẩy ra ngoài. 
 d.Các tuyến sinh dục phụ: 
- Tinh nang: Lợn có tinh nang rất phát triển, nằm ở hai bên cầu niệu 
đạo có hình quả lê dài độ 20 - 25 cm, rộng độ 15 cm. Tác dụng của 
tinh nang là tiết ra dịch để pha loãng tinh dịch. 
- Tiền liệt tuyến: Tiền liệt tuyến tiết ra dịch thể pha loãng tinh dịch, 
làm tăng hoạt tính tinh trùng, trung hòa độ a-xít trung đạo của gia súc cái và 
CO2 sản sinh ra trong quá trình hô hấp, nó có mùi hắc. 
- Tuyến Cao - Pơ: Tuyến này tiết ra dịch thể có tính kiềm, tác dụng 
tẩy rửa nước tiểu ở đường sinh dục con cái để chuẩn bị cho tinh trùng đi qua. 
Mặt khác, chất tiết của tuyến Cao – Pơ có tính nhờn bôi trơn âm đạo của con 
cái tạo điều kiện dễ dàng lúc giao phối. 
 e. Dương vật: 
Dương vật của lợn đực có hình lưỡi khoan, bình thường nó ẩn trong 
xoang bụng, khi giao phối thì dương vật thò ra ngoài và cương cứng lên. 
2. Đặc điểm sản xuất tinh dịch 
 a. Quá trình sinh tinh 
Quá trình sản sinh ra tinh trùng từ trong ống dẫn tinh nhỏ.Quá trình 
này được sản sinh liên tục trong dịch hoàn. 
Vào giai đoạn 50 ngày tuổi sau khi đẻ, trong các ống sinh tinh đã hình 
thành các tinh bào sơ cấp. Sau thời kỳ này, các biến đổi cơ thể và hormones 
cũng xuất hiện và thay đổi hình thái, cấu trúc dịch hoàn, các ống sinh tinh to 
lên nhanh chóng làm tăng nhanh kích thước và khối lượng của tinh hoàn. 
Ở giai đoạn 150 ngày tuổi, đường kính của các ống sinh tinh đã đạt 
130 - 140 µm, 210 ngày tuổi là 210 µm. 
Từ 3 tháng tuổi trong ống sinh tinh có tất cả các dạng tế bào sinh dục 
từ tinh nguyên bào đến tiền tinh trùng. Từ 4 tháng tuổi đã có nhiều tinh trùng 
 4
và tới 8 tháng tuổi thì ống sinh tinh đạt mức ổn định về kích thước. 
b. Khả năng sản xuất tinh dịch của lợn 
Lợn đực giống hoạt động sinh dục thuộc loại hình phóng tinh tử cung. 
Mỗi lần xuất tinh từ 100-500 ml, có khi đến 700 hoặc 800 ml/lần xuất tinh. 
Tinh dịch của lợn đực gấp 50-100 lần so với trâu bò, dê cừu nhưng 
mật độ tinh trùng chỉ khoảng 50 ngàn đến 500 triệu/ 1ml tinh dịch. Theo 
Foote và Kenelly, (1985) thì mật độ tinh trùng của lợn khoảng 200 triệu 
con/1 ml. 
Lợn đực có lượng tinh xuất tăng dần theo độ tuổi từ lúc 8 tháng tuổi 
(80 ml với nồng độ tinh trùng 180-200 triệu con) đến 3 năm tuổi, lợn có 
lượng tinh xuất một lần khoảng 300 ml với nồng độ từ 250-280 triệu. Số 
lượng tinh trùng của một lợn đực giống trưởng thành trong một lần xuất 
khoảng 60 tỷ con. Sau 3 - 4 năm tuổi, lợn đực giống có lượng tinh và nồng 
độ tinh trùng giảm xuống, nhiều con giảm nhanh nếu như không có qui trình 
nuôi dưỡng và sử dụng tốt. Vậy nên, các trại chăn nuôi lợn ở nước Úc đã sử 
dụng lợn đực giống trẻ và trong thời gian khoảng 2 năm, sau đó thanh lý. 
II.LỢN NÁI 
1. Cơ quan sinh dục lợn nái 
Bộ máy sinh dục của lợn cái gồm hai buồng trứng nằm trong xoang 
chậu, đường sinh dục bao gồm ống dẫn trứng và vòi trứng (vòi pha lốp), tử 
cung, cổ tử cung, âm đạo và âm môn 
Trước khi trứng rụng từng cái một, buồng trứng có sự phát triển, bên 
trong các bọc chứa tế bào trứng và các chất dịch gọi là bao noãn. 
 Trong khoảng thời gian 16 - 17 ngày đầu của chu kỳ động dục, những 
bao noãn này phát triển chậm tới lúc đạt kích thước 4 mm. Tiếp theo trong 
khoảng ngày thứ 4 - 5 trước khi trứng rụng các bao noãn phát triển một cách 
nhanh chóng để đạt kích thước tối đa 8-10mm. Sự rụng trứng xảy ra khoảng 
40 h sau giờ xuất hiện động dục và trứng được phóng vào ống dẫn trứng. 
Trong ống dẫn trứng chúng sớm được thụ tinh (1/3 phía trên ống dẫn trứng) 
và phát triển thành hợp tử trước khi vận chuyển đến sừng tử cung làm tổ 
khoảng 4 ngày sau. 
Đời sống sinh sản của lợn nái có thể bắt đầu sớm nhất khi nó đạt tới 
sự thành thục về tính (lần rụng trứng đầu tiên thường khoảng 6- 7 tháng tuổi 
đối với lợn ngoại, 4 tháng đối với lợn nội) 
 5
Bộ máy sinh dục lợn cái 
 6
2. Chu kỳ động dục của lợn nái 
Biểu hiện các triệu chứng động dục ra bên ngoài và kèm theo quá 
trình rụng trứng của lợn nái gọi là giai đoạn động dục hoặc là chu kỳ động 
dục. 
Ở lợn cái sự thành thục sinh dục xuất hiện từ lúc 6 - 7 tháng tuổi (đối 
với các giống lợn ngoại) 4-5 tháng (đối với các giống lợn nội). 
Chu kỳ động dục của lợn cái là khoảng thời gian giữa lần động dục 
trước đến lần động dục sau. Chu kỳ động dục của lợn cái từ 18-24 ngày, 
trung bình 21 ngày. 
Động dục là hiện tượng xuất hiện các triệu chứng động dục như âm hộ 
sưng lên, có màu đỏ, lợn cái kêu la, phá chuồng, bỏ ăn, tìm con đực, đứng 
yên, cong đuôi lên và âm hộ tiết ra dịch nhầy, kèm theo quá trình rụng trứng. 
C. CHUẨN BỊ GIAO TỬ 
 I. LẤY TRỨNG 
 1. Chọn lọc heo cho trứng. 
 Heo cái khỏe mạnh, không hung dữ, không mắc bất cứ bệnh di truyền 
nào. 
Chu kỳ động dục bình thường. Chu kỳ động dục của lợn cái từ 18-24 
ngày, trung bình 21 ngày. 
Bộ phận sinh dục bình thường, không viêm nhiễm. 
Heo cái phải đạt các tính trạng năng suất mong muốn và có khả năng 
di truyền các tính trạng này cho đời sau. 
 2. Khai thác thu thập tế bào trứng. 
 Để có được tế bào trứng hay còn gọi là giao tử cái, có thể thu thập từ 
ống dẫn trứng sau khi trứng rụng, từ nang trứng của buồng trứng bằng nội 
soi – siêu âm hoặc bằng giải phẫu những con vật đang còn sống, từ nang 
trứng của buồng trứng ở những con vật đã bị giết ở lò mổ. 
a. Thu trứng từ ống dẫn trứng ở heo cái. 
Trứng có thể rụng tự nhiên hoặc là do sử dụng các hormon kích thích 
trứng phát triển chín và rụng ( phương pháp siêu bài noãn) 
Hormon phát triển trứng 
Ngày của chu 
kì động dục PMSG (IU) FSH 
(mg) 
Hormon rụng 
trứng HCG 
(IU) 
Bò 
Heo 
15 – 16 
15 – 16 
1500 – 3000 
750 - 1500 
20 – 50 
10 - 20 
1500 – 2000 
500 - 1000 
 7
Quy trình gây siêu bài noãn ở bò và heo. 
☺ Cách thu trứng : Để thu được trứng, người ta phải phẫu thuật để 
bộc lộ ống dẫn trứng và sử dụng ống thông để bơm dung dịch PBS 
vào ống dẫn trứng giội rửa vài lần, sau đó tìm trứng ở dung dịch 
rửa và phân loại các trứng thu được. 
☺ Ưu nhược điểm của cách thu trứng này 
o Ưu điểm: trứng thu được bằng cách này có tỷ lệ chín cao. 
o Nhược điểm: việc xác định thời gian thu trứng ở ống dẫn 
trứng có ý nghĩa quan trọng,nếu muộn quá trứng đã qua 
thời điểm thụ tinh thích hợp, vì vậy phải thu trứng ở heo 
cái vào khoảng từ giữa đến cuối động đực là thích hợp 
nhất. 
 b. Thu trứng từ các nang trứng của buồng trứng. 
☺ Ở heo cái đang sống, thường được khai thác trứng nhiều lần để tận 
dụng triệt để tiềm năng sinh sản của buồng trứng. Các kỹ thuật thu 
trứng 
o Kỹ thuật nội soi – siêu âm, người ta sử dụng kim dài 
xuyên qua thành âm đạo chọc và tìm nang trứng chín để 
hút tế bào trứng. 
o Giải phẫu bộc lộ buồng trứng giống như cách thu trứng ở 
ống dẫn trứng. 
☺ Đối với heo cái sắp chết hoặc heo ở lò mổ, người ta thu buồng 
trứng ngay sau khi mổ trong điều kiện vô trùng và bảo quản trong 
điều kiện vệ sinh vô trùng và bảo quản trong môi trường thích hợp, 
vận chuyển nhanh về phòng thí nghiệm và tiến hành thu trứng. 
o Ở phương pháp này, trứng thu được từ nang trứng non 
cần được nuôi chín đến khi đạt trạng thái có thể thụ tinh. 
o Vì vậy, tận thu được số lượng lớn tế bào trứng hơn các 
phương pháp khác, nhưng đa số trúng không rõ nguồn 
gốc con mẹ. 
 3. Phân loại, chọn lọc tế bào trứng. 
 Sau khi thu thập xong, tế bào trứng được phân loại và chọn lọc để 
nuôi chín và thụ tinh theo hình dáng, kích thước trứng, độ dày của lớp tế bào 
cumulus còn gọi là tế bào gò trứng bao quanh trứng. Phân loại tế bào trứng 
theo đặc điểm của lớp tế bào cumulus bao quanh trứng là thực tế và hiệu 
quả. 
Hiện nay có 2 kỹ thuật (trực tiếp và gián tiếp) để đánh giá sự trưởng 
thành của trứng từ phức hợp OCC. 
+ Kỹ thuật đánh giá trực tiếp dựa vào sự sự hiện diện của túi mầm 
hay thể cực thứ nhất. Cách thứ 2 có liên quan đến việc phân tách khối 
cumulus bằng enzym. 
 8
 + Kỹ thuật đánh giá gián tiếp thường thông qua các trứng còn gắn 
khối cumulus, nhìn chung việc đánh giá này thiếu chính xác, tuy nhiên nó 
đơn giản. 
 Trứng sau khi được thu thập được chia ra làm 3 loại A, B, C dựa trên 
sự hiện diện và độ dày mỏng của tế bào cumulus. Thường chỉ dùng trứng 
loại A và B trong IVF. 
 4. Nuôi trứng trưởng thành 
 Các trứng được lấy trực tiếp từ việc chọc hút nang hoặc từ lò mổ 
thường chưa trưởng thành, do đó sau khi thu nhận cần phải tiến hành nuôi 
trứng chín. 
 Đầu tiên, trứng phải được rửa bằng môi trường thu nhận ( đã 
được làm ấm 370C) và lần cuối cùng rửa bằng môi trường nuôi 
chín. 
 Sau đó đưa trứng vào các giọt môi trường nuôi đã tạo sẵn trên 
đĩa petri, mỗi giọt thường chứa từ 1- 10 tế bào trứng. Các giọt 
môi trường này có đệm HEPES, huyết thanh và heparin ( đã ủ ở 
370C) 
Môi trường cho IVM được chia làm 2 loại: đơn giản và phức tạp 
 Môi trường đơn giản là hệ thống đệm bicarbonate chứa các 
muối như pyruvate, lactase và glucose. Thường được cung cấp 
thêm một lượng huyết thanh hay albumin và các kháng sinh ( 
penicilin, streptomycin và gentamicin). 
 Môi trường phức tạp cũng chứa các thành phần như môi trường 
đơn giản và thường có thêm một số yếu tố như amino acid, 
vitamin, purine và những chất khác. 
Ngoài ra, môi trường IVM còn được bổ sung hormone (FSH, 
estradiol, prolactin…). Nhân tố tăng trưởng cũng được bổ sung gồm 
IGF, EGF, TGF-L. 
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến IVM, chẳng hạn nước sử dụng, độ 
thẩm thấu, nhiệt độ và khí, độ sáng của môi trường, dụng cụ nuôi 
cấy… 
II.LẤY TINH TRÙNG 
II.1 Huấn luyện heo đực giống nhảy giá. 
Heo đực giống đến tuổi thành thục và đạt mức độ hăng về tính dục có 
thể huấn luyện nhảy giá để lấy tinh. 
1.Tuổi huấn luyện 
Đực giống khi đưa vào huấn luyện tuổi phải hơi non (tuổi dậy thì) bởi 
vì ở tuổi này dễ cảm hóa con vật nhưng đồng thời cũng là tuổi con vật có 
 9
tinh hăng về sinh dục, còn nếu tuổi trưởng thành thi khó huấn luyện hơn vì 
tính bảo thủ của nó cao. Lợn nội 5-6 tháng tuổi, lợn ngoại 7-8 tháng tuổi. 
2.Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng 
Trước khi đưa heo đực giống vào huấn luyện khoảng 20 ngày cần cho 
ăn khẩu phần ăn phải đảm bảo và cân đối giữa các chất, đặc biệt là protein, 
canxi, phốt pho và các loại Vitamin A, D, E... 
Cùng thời gian ấy người huấn luyện phải tiếp xúc với con đực để làm 
quen bằng cách cho vận động, tắm chải, xoa bóp dịch hoàn. 
3.Lịch huấn luyện 
Phải đảm bảo một tuần không quá hai lần và đúng giờ qui định (tốt 
nhất là khoảng từ 5-7 giờ sáng). 
4.Người huấn luyện 
Người huấn luyện phải kiên trì tránh nôn nóng, tránh các hành vi thô 
bạo như : đánh đập và phải luôn cố định người huấn luyện bởi vì có cố định 
người huấn luyện thì mới theo dõi được cá tính của từng con để chiều theo ý 
thích của chúng. 
5. Phòng và giá huấn luyện 
Phòng huấn luyện phải rộng đủ cho gia súc đi lại thực hiện các phản 
xạ. 
Để làm giá, có thể là “giá tự nhiên” như heo cái (động dục hoặc không 
động dục), con đực khác; hoặc giá nhân tạo (bằng gỗ, xi măng, sắt, có phủ 
vải bạt, cao su). 
6. Phương pháp huấn luyện 
* Nguyên tắc huấn luyện 
Thành lập cho heo đực một phản xạ có điều kiện về nhảy giá và 
thường xuyên củng cố phản xạ này. Lúc đầu cho nó nhảy với cái động dục, 
tiếp đó cho nhảy với con mồi, cuối cùng cho nhảy với giá. 
* Chú ý: - Mỗi giai đoạn nhảy ta cho củng cố 5 đến 6 lần, khi gia súc 
thành thạo thì ta sẽ chuyển sang giai đoạn khác. 
- Một số con ta chỉ cần cho nó tham quan sau đó tự nó có thể tự 
nhảy giá được hoặc có những con khi cho nó vào giá nó nhảy 
giá ngay thì cho chúng nhảy trực tiếp giá không cần áp dụng 
một cách máy móc quy trình trên để rút ngắn thời gian huấn 
luyện. 
II.2 Một số kỹ thuật lấy tinh. 
=> Các yêu cầu cơ bản trong kỹ thuật lấy tinh. 
a. Phải khai thác toàn bộ tinh dịch của con đực trong 1 lần khai thác. 
 10
Nếu việc đó không xảy ra thì nó sẽ gây ra 2 hiện tượng: 
+ Lãng phí tinh dịch 
+ Phản xạ tính dục của heo đực giống bị ảnh hưởng, làm mất 
khoái cảm sinh dục, dẫn đến làm mất phản xạ có điều kiện đã được 
tạo nên. 
b. Đảm bảo phẩm chất của tinh dịch. 
- Để đạt được về số lượng và chất lượng thì phải đảm bảo các điều 
kiện sống, sinh lý, chế độ khai thác con đực. Sau khi khai thác xong thì phải 
đảm bảo điều kiện sống cho tinh trùng khi ra ngoài cơ thể đặc biệt là không 
được có các tạp khuẩn, các chất sinh học gây ảnh hưởng đến chất lượng tinh 
trùng. Phải tránh lây lan các bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng thông qua 
khai thác tinh dịch. 
Có những chú ý sau về khâu vệ sinh trong quá trình khai thác tinh dịch: 
+ Dụng cụ khai thác tuyệt đối vô trùng. 
+ Không được khai thác tinh dịch của gia súc ốm, bị bệnh. 
+ Phải tắm rửa con đực trước mỗi lần khai thác tinh dịch. 
+ Vệ sinh sạch sẽ giá nhảy, phòng lấy tinh. 
+ Nhân viên lấy tinh dịch phải cố định và không mắc các bệnh truyền 
nhiễm. 
c. Không được gây ảnh hưởng thô bạo đến cơ quan sinh đực. 
d. Dụng cụ an toàn cho cơ quan sinh dục gia súc, dễ thao tác, dễ kiếm và giá 
thành hạ. 
=> Các kỹ thuật lấy tinh 
1. Dùng âm đạo giả. 
Cấu tạo âm đạo giả gồm hai phần chính: 
☺ Phần tiếp nhận dương vật: vỏ và ruột âm đạo giả, các vành 
đai, lỗ rót nước có van khóa. 
☺ Phần hứng tinh dịch: đoạn phễu nối, ống hứng tinh(hoặc lọ, 
cốc) 
 11
Điều kiện cần thiết để heo đực giống xuất tinh thuận lợi. 
☺ Ôn độ trong lòng âm đạo giả: 38-400C, nhưng cũng tùy 
cá thể mà bố trí nhiệt độ thích hợp. 
☺ Áp lực trong lòng âm đạo giả: 35-70 mm Hg. 
☺ Tùy cá thể mà giữ cho lòng âm đạo giả có độ căng thích 
hợp. Kinh nghiệm: thổi hoặc bơm hơi cho căng bằng 
miệng ngoài âm đạo giả và tạo thành hình sao 3 cạnh. 
☺ Độ trơn trong lòng âm đạo giả: bôi trơn 2/3 mặt trong 
âm đạo giả bằng vazơlin hoặc tragacăng. 
Một số dụng cụ lấy tinh 
=> Đây là phương pháp mang tính tối ưu nhất hiện nay, nó có một số 
ưu nhược điểm chính sau: 
+ Đảm bảo an toàn được cơ quan sinh dục của con đực 
+ Chất lượng tinh dịch được đảm bảo tốt 
+ Dụng cụ phức tạp, chuẩn bị cầu kỳ. 
2. Kích thích bằng điện. 
Ý tưởng băt đầu từ Battelli, năm 1922 trên đối tượng là con lợn, sau 
đó năm 1936 Gunn (Úc) đã hoàn thiện công trình và rất thành công trên bò. 
Biện pháp này áp dụng cho những trường hợp heo đực giống không 
thể nhảy giá được (què), hoặc không quen với âm đạo giả. 
* Nguyên tắc: Dùng dòng điện xoay chiều kích thích vào hệ thần kinh 
thực vật của con đực làm hưng phấn cao độ và có phản xạ tính dục. 
 12
Phương pháp này cho kết quả tốt, được chấp nhận và thực tế sử dụng 
nhưng không nhiều, lượng xuất tinh giảm. Sau một thời gian sử dụng có thể 
gây nên bệnh lý. Hiện nay có các máy sử dụng điện hoặc pin của Nga, Mỹ, 
Pháp. 
Không nên sử dụng những heo đực giống không có giá trị về di 
truyền. 
Nguồn điện sử dụng: 220V, 110V hoặc 12V. 
3. Dùng tay để lấy tinh heo đực. 
Trước đây người ta lấy tinh lợn đực bằng âm đạo giả nhưng ngày nay 
người ta lấy tinh bằng tay. 
Sử dụng con đực ở tuổi: 7-9 tháng đối với lợn ngoại, 5-7 tháng đối với 
lợn nội. 
Khi heo đực đã nhảy lên giá và thò dương vật ra, dùng bàn tay (mang 
găng cao su mềm) nắm nhẹ và vân vê phần tự do của dương vật, kích thích 
cho heo giao cấu trong lòng bàn tay đến khi heo xuất tinh. 
Phương pháp này có nhiều lợi thế, nhưng cần phải chú ý bảo vệ 
dương vật heo và phòng ngừa sự lây lan bệnh giữa heo và người. 
* Chú ý: 
- Không bịt ngón tay vào lỗ phóng tinh, tinh không bắn ra được. 
- Cho tinh dịch chảy theo thành cốc hứng tinh. 
- Trong quá trình lợn phóng tinh tay giữ dương vật để nguyên vị trí và có thể 
dùng ngón tay cái kích thích vào đầu dương vật để gây kích thích cho lợn 
xuất tinh tốt hơn. 
- Khi lấy tinh xong cần phải vệ sinh phòng lấy tinh và dụng cụ. 
II.3 Tần số lấy tinh. 
Số lượng tinh trùng và lượng tinh dịch thu được có biến động tùy theo 
giống, tuổi, tần số lấy tinh. 
Trong mỗi lần xuất tinh, heo đực tiết ra một số lượng lớn tinh trùng và 
cũng chóng vơi cạn số tinh trùng dự trữ trong dịch hoàn phụ, vì vậy tần số 
lấy tinh có ảnh hưởng lớn đến lượng xuất tinh, nồng độ tinh trùng, tổng số 
tinh trùng tiến thẳng, số liều tinh dịch có thể sản xuất từ một lần lấy tinh. 
Nếu lấy tinh hằng ngày (mà 4-5 ngày trước đó heo đã được nghỉ xuất 
tinh), trừ lần xuất tinh đầu tiên, còn các lần sau đều bị giảm về tổng số lượng 
tinh trùng xuất ra. Do đó, số liều tinh dịch của mỗi lần lấy tinh để sử dụng 
cũng bị giảm sút. 
 13
Khoảng cách 
lấy tinh (giờ) 
Lượng xuất 
tinh (ml) 
Nồng độ tinh 
trùng (tỉ/ml) 
Tổng số tinh 
trùng tiến 
thẳng (tỉ) 
Số liều tinh 
dịch từ một 
lần lấy tinh 
(mỗi liều có 
1 tỉ tinh 
trùng) 
24 
48 
72 
96 
120 
144 
168 
116 
166 
181 
221 
256 
251 
239 
0,125 
0,145 
0,150 
0,220 
0,220 
0,200 
0.210 
9,7 
16,1 
27,2 
37 
45,1 
38,7 
38,1 
9,7 
16,1 
27,2 
37 
45,1 
38,7 
38,1 
Ảnh hưởng của tần số lấy tinh 
II.4 Đánh giá tinh dịch 
1. Trạng thái tinh dịch. 
Tinh dịch phải có trạng thái tương đối đồng nhất, màu trắng sữa đặc, 
chứng tỏ có nồng độ tinh trùng cao. Tinh dịch trong mờ là tinh dịch chứa ít 
tinh trùng. 
Trong tinh dịch không lẫn lông và các vật bẩn khác. Không nên sử 
dụng tinh dịch đóng vón có chứa những mảnh vật chất hoặc tinh thể vì 
chứng tỏ đường sinh dục bị viêm nhiễm. 
Một số heo đực giống thường xuyên xuất ra tinh dịch màu vàng nhạt, 
chứng tỏ sự có mặt của riboflavin sắc tố vô hại. Tinh dịch có màu xanh là 
tinh dịch có lẫn mủ, tinh dịch có màu hồng là tinh dịch lẫn máu. 
Tuổi thọ của tinh trùng giảm dần từ sau khi lấy tinh ra khỏi cơ thể đực 
giống. Tinh dịch nguyên dạng lỏng phần lớn còn khả năng thụ tinh trong 
vòng 48 giờ tính từ sau lúc lấy tinh. Vì vậy sau khi lấy tinh cần tiến hành 
ngay các khâu đánh giá chất lượng tinh dịch để quyết định việc pha loãng 
bảo tồn tiếp theo. Thao tác đánh giá càng nhanh và càng chính xác càng tốt. 
2. Các phương pháp đánh giá tinh dịch. 
a. Nồng độ tinh trùng 
Là số tinh trùng trong 1ml tinh dịch. 
Việc xác định chính xác nồng độ tinh trùng là rất quan trọng vì chỉ 
tiêu này thường biến động lớn. Khi phối hợp giữa lượng xuất tinh, sức hoạt 
 14
động tinh trùng và nồng độ tinh trùng, sẽ có được tổng số tinh trùng tiến 
thẳng trong tinh dịch, từ đó sẽ tính được số liều tinh dịch có thể sản xuất của 
mỗi lần xuất tinh. 
Cho đến nay phương pháp xác định nồng độ tinh trùng được tín nhiệm 
là dùng buồng đếm bạch cầu. 
Buồng đếm Niubaoơ 
Thứ tự đếm tinh trùng: Trên xuống, từ trái sang phải 
Ngoài buồng đếm còn có ống karras, máy so màu quang 
điện. 
 15
Ống Karas 
b. Sức kháng thẩm thấu của tinh trùng (Ro) 
Nguyên tắc: dựa trên sự đánh giá sức chịu đựng của tinh trùng đối với 
dung dịch NaCl nhược trương. Nếu tinh trùng chịu đựng được dung dịch 
NaCl nhược trương sau 3 giờ mà sức hoạt động vẫn còn tốt, chứng tỏ chất 
lượng tinh dịch tốt. 
Cách làm: dùng NaCl 0,8%, pha loãng 1:4, bảo tồn ở nhiệt độ phòng 
và kiểm tra hoạt lực tại các thời điểm: 0 giờ (lúc mới pha loãng), 1 giờ, 2 
giờ, 3 giờ ( sau khi pha loãng). Cộng 4 giá trị hoạt lực ấy, mẫu tinh dịch nào 
có giá trị tổng hoạt lực càng cao, chất lượng tinh dịch càng tốt. 
c. Tỉ lệ tinh trùng sống/chết. 
Có thể đánh giá tỉ lệ sống/chết của tinh trùng bằng cách nhuộm tinh 
trùng đang còn sống trong hỗn hợp nigrosin-eosin. Khi nhuộm, nếu tinh 
trùng còn sống thì đầu tinh trùng không bắt màu, còn nếu tinh trùng chết thì 
đầu tinh trùng bắt màu hồng trên nền thẫm của nigrosin. 
 Phương pháp phết tiêu bản. 
Thông thường tỉ lệ tinh trùng của heo sống đạt ≥70% trở lên chứng tỏ 
tinh dịch tốt, sử dụng đạt hiệu quả cao. 
 16
d. Độ pH tinh dịch 
Độ pH của tinh dịch có liên quan đến khả năng sống và năng lực thụ 
tinh của tinh trùng. 
Để xác định độ pH , chính xác nhất là dùng máy đo pH. Ngoài ra 
trong thực tiễn vẫn có thể dùng giấy chỉ thị màu, phương pháp này nhanh, rẻ 
tiền nhưng độ chính xác không cao. 
Cách đo pH bằng giấy chỉ thị màu: nhúng ngập giấy chỉ thị vào tinh 
dịch và so kết quả chuyển màu của giấy đối với thang màu. Đọc kết quả 
trong vòng 5 giây. Độ pH tinh dịch heo khoảng 7,2-7,5. 
e. Tình trạng acrosome của tinh trùng. 
Acrosome có vai trò quan trọng đối với năng lực thụ tinh của tinh trùng. Các 
nhân tố lý hóa học, bệnh lý… dễ dàng làm cho acrosome bị tổn thương. Kỹ 
thuật đông lạnh không đúng đắn cũng có thể phá hủy acrosome và màng bọc 
tinh trùng, làm thất thoát các enzyme trong tế bào. 
Có nhiều phương pháp đánh giá tình trạng acrosome 
☺ Đánh giá nhanh một cách khái quát: thường dùng các dung 
dịch có thể làm cho một số thành phần trong acrosome ph
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ttton_heo_5606.pdf ttton_heo_5606.pdf