1 Nuôi chín tế bào nang trứng và nuôi cấy in vitro
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) bò sẽ thành công hơn nếu trứng 
được thu hoạch từ buồng trứng hoặc từ các nang trứng chín (tế bào trứng thứ 
cấp). Tuy nhiên, cáctrứng trong nang chưa chín vẫn được sử dụng nhờ áp 
dụng quá trình gây siêu bài noãn. Các tế bào trứng thu hoạch được từ các 
nang trứng có đường kính 2-5 mm cần được nuôi chín cho đến khi đạt tới 
giai đoạn II của quá trình phân chia (Metaphase II) (tương ứng với "tuổi" 
của trứng khi trứng rụng tự nhiên). Hiện tượng " nuôi chín in vitro" này đã 
được tiến hành rất nhiều kể từ khi Sreenan báo cáo lần đầu tiên (1970). Hiện 
nay, tế bào trứng bò được nuôi cấy trong huyết thanh thai bê (10-20%), ví dụ 
TCM199, trong 24-28 giờ với tỷ lệ chín của tế bào trứng là 60-80% và đã 
thành công trong IVF
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1797 | Lượt tải: 4 
              
            Nội dung tài liệu Thụ tinh trong ống nghiệm trên đối tượng bò, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thụ tinh trong ống nghiệm 
trên đối tượng bò 
1 Nuôi chín tế bào nang trứng và nuôi cấy in vitro 
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) bò sẽ thành công hơn nếu trứng 
được thu hoạch từ buồng trứng hoặc từ các nang trứng chín (tế bào trứng thứ 
cấp). Tuy nhiên, các trứng trong nang chưa chín vẫn được sử dụng nhờ áp 
dụng quá trình gây siêu bài noãn. Các tế bào trứng thu hoạch được từ các 
nang trứng có đường kính 2-5 mm cần được nuôi chín cho đến khi đạt tới 
giai đoạn II của quá trình phân chia (Metaphase II) (tương ứng với "tuổi" 
của trứng khi trứng rụng tự nhiên). Hiện tượng " nuôi chín in vitro " này đã 
được tiến hành rất nhiều kể từ khi Sreenan báo cáo lần đầu tiên (1970). Hiện 
nay, tế bào trứng bò được nuôi cấy trong huyết thanh thai bê (10-20%), ví dụ 
TCM199, trong 24-28 giờ với tỷ lệ chín của tế bào trứng là 60-80% và đã 
thành công trong IVF. Nhưng có một điều hết sức quan trọng là phải thu 
thập được tế bào trứng hoàn hảo, nghĩa là không chỉ có nhân chín mà còn 
phải có nguyên sinh chất hoàn hảo và vòng trong suốt tròn rõ. 
2 Hiện trạng và những vấn đề của IVF 
Trong năm 1959, Chang đã tạo một động vật có vú đầu tiên từ quá 
trình IVF trên thỏ. ở người, hơn 1000 cháu bé ra đời bằng IVF kể từ sau ca 
IVF đầu tiên thành công của Steptoe và Edward (1978). ở Nhật, thành công 
đầu tiên đã đến với nhóm nghiên cứu thuộc Bệnh viện Tổng hợp Tohoku 
(1983), tiếp đến là rất nhiều thành công của các bệnh viện tổng hợp khác 
trong toàn quốc. 
Bảng 1. Thành tựu về IVF ở động vật có vú 
Tác gia Loài được 
nghiên cứu 
Kết quả đạt được 
Chang (1959) Thỏ Đẻ con 
Dauzler & 
Thibault (1959) 
Cừu Tiền nhân 
Yanagimachi & 
Chang (1964) 
Chuột đồng 
Trung Quốc 
Thâm nhập, tiền nhân và 
phân chia tế bào 
Whittingham 
(1968) 
Chuột Phân chia tế bào và thai 
Pickworth & 
Chang (1969) 
Chuột đồng 
Trung Quốc 
Thâm nhập và tiền nhân 
Edwards et al. 
(1969) 
Người Thâm nhập và tiền nhân 
Hamner et al. 
(1970) 
Mèo Phân chia tế bào 
Yanagimachi 
(1972) 
Chuột Lang Thâm nhập, tiền nhân và 
phân chia tế bào 
Gould et al. Khỉ Rhesus Tiền nhân và phân chia 
(1973) tế bào 
Miyamoto & 
Chang (1973) 
Chuột Thâm nhập và tiền nhân 
Iritani et al. 
(1975) 
Lợn Thâm nhập, tiền nhân và 
phân chia tế bào 
Mahi & 
Yanagimachi (1976) 
Chó Thâm nhập (mở rộng 
đầu) 
Iritani & Niwa 
(1977) 
Bò Thâm nhập và tiền nhân 
Hanada & Chang 
(1978) 
Hươu chuột Thâm nhập và tiền nhân 
Hanada & 
Tsutsumi 
Dê Thâm nhập 
Khi IVF ở người, tế bào nang trứng được lấy ra từ người mẹ bằng 
phương pháp nội soi ngay trước kỳ trứng rụng, sau đó tế bào trứng này được 
cho thụ tinh với tinh trùng của người chồng, nuôi cấy cho phát triển đến giai 
đoạn 4-8 tế bào và cấy trở lại vào tử cung người mẹ. Phương pháp này được 
gọi là IVF-ET (In vitro Fertilization and Embryo Transfer) vì nó gồm hai kỹ 
thuật: thụ tinh trong ống nghiệm và cấy truyền phôi. 
Đã có nhiều công trình về IVF ở động vật có vú được công bố. Phần 
lớn đề cập đến sự xâm nhập của tinh trùng vào trong tế bào trứng, việc tạo ra 
tiền nhân và sự bắt đầu phân chia (Bảng 1). 
Quá trình IVF-ET được áp dụng đầu tiên trên người, và thí nghiệm 
nhiều trên động vật (như chuột nhắt, chuột cống, thỏ) nhưng có rất nhiều báo 
cáo về sự thành công trên đối tượng gia súc ở thập kỷ 80 (bảng 2). 
Bảng 2.? Một số? động vật có vú? ra đời lần đầu tiên do IVF 
Tác gia Loài 
động vật 
 Tác gia Loài 
động vật 
Chang (1959) Thỏ Brackett et Bò 
al. (1982) 
Whittingham 
(1968) 
Chuột Hanada 
(1985) 
Dê 
Shiba 
Toyoda & 
Chang (1974) 
Chuột 
cống 
 Hanada 
(1985) 
Cừu 
Steptoe & 
Edwards (1978) 
Người Cheng et al. 
(1986) 
Lợn 
Brackett (1982) là người đầu tiên báo cáo về thành công IVF trên bò. 
Ngày nay kỹ thuật này đã được áp dụng trên toàn thế giới trong đó có Nhật 
Bản (bảng 3). Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần được giải quyết, chứ không 
giống như làm IVF trên đối tượng chuột nhắt, chuột cống và người. 
Bảng 3. Số liệu về các ca chửa đẻ ở bò được IVF 
Tác gia Trứng Tinh 
trùng 
Phát triển 
của tế bào trứng 
Kết quả 
?lúc được 
truyền cấy 
Brackett et 
al., 1982 
IVM Tươi 4 tế bào 1 bê 
Brackett et 
al., 1982 
IVM Tươi 
(?) 
4 tế bào 
(?) 
2 bê 
(sinh đôi) 
Hanada et 
al., 1986 
IVM Đông 
lạnh 
Phôi dâu-
nang 
3 bê 
Sirard et 
al.,1986 
IVM Tươi Phôi nang 
8 tế bào 
7 bò có 
chửa, đẻ 6 bê 
Shimohira 
et al, 1986 
IVM Đông 
lạnh 
1 tế bào 1 sẩy 
thai (210 ngày) 
Parrish et IVM Đông Phôi dâu, 
nang đông lạnh 
3 bê (có 
al., 1986 lạnh và giải đông 2 sinh đôi) 
Lu et al., 
1987 
IVM Đông 
lạnh 
Phôi dâu-
nang 
11 bò có 
chửa 
Fukushima 
et al, 1987 
IVM Đông 
lạnh 
Phôi nang 3 bê 
Aoyagi, 
1987 
IVM Đông 
lạnh 
Phôi dâu-
nang 
3 bê 
 - IVM (in vitrro maturation): Nuôi chín trong ống nghiệm 
- Các trứng sau khi thụ tinh được nuôi cấy trong tử cung thỏ và tử 
cung cừu 
 Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm bò được trình bày ở bảng 4. 
Bảng 4. Các nội dung hoạt động và kỹ thuật cần thiết cho IVF 
Nội dung Tiến hành 
Lấy tinh Giải đông tinh (đông lạnh). 
Epididymis tinh trùng 
Hoạt hoá tinh trùng Trong đường sinh dục của con cái 
động dục 
Nuôi cấy trong cơ quan sinh dục 
Nuôi cấy trong môi trường nuôi cấy 
tổng hợp 
Thu hoạch trứng Trứng rụng tự nhiên. Trứng trong 
nang trứng 
Nuôi chín tế bào trứng Nuôi chín in vitro. Nuôi cấy trong 
môi trường tổng hợp 
Thụ tinh Môi trường nuôi cấy phù hợp 
Nồng độ tinh trùng. Đánh giá tinh 
trùng 
Nuôi cấy các trứng đã 
được thụ tinh 
Trong cơ quan sinh sản cùng loài 
hoặc khác loài 
Cấy truyền các trứng đã 
được thụ tinh 
Phương pháp phẫu thuật hoặc không 
phẫu thuật 
Sự thành công phụ thuộc chủ yếu vào sự chín của tinh trùng (sự hoạt 
hoá) và tế bào trứng. Hơn nữa, để có thể có được một con bê ra đời qua con 
đường phôi cấy vào tử cung tử cung bằng phương pháp không phẫu thuật thì 
phôi đó phải được nuôi cấy cho đến khi có 8 tế bào hoặc cho tới giai đoạn 
phôi nang thì càng tốt. Những ví dụ về IVF bò được ghi trong bảng 5. 
Bảng 5. Những thành tựu chủ yếu đối với kỹ thuật IVF trên bò ở Nhật 
Bản 
Tác gia, Cơ 
quan, năm 
Điều 
kiện nuôi 
trứng chín 
IVM 
Điều 
kiện xử lý 
tinh trùng 
Điều 
kiện nuôi cấy 
sau IVF 
Kết quả 
Hanada et 
al. (Viện 
Quốc gia, 
1985) 
Nuôi 
chín in vitro 
cùng với 
hormone 
Caffein 
+ Ca++ 
Tử 
cung thỏ 
Đẻ (chết 
khi sinh) 
Hanada et 
al. (Viện 
Quốc gia, 
1986) 
Nuôi 
chín in vitro 
cùng với 
hormone 
Caffein 
+ Ca++ 
Tử 
cung thỏ 
2 bê 
Shimohira 
et al. (Viện 
Quốc gia, 
1986) 
Nuôi 
chín in vitro 
cùng với 
hormone 
Caffein 
+ Ca++ 
Tử 
cung thỏ 
3 bê, bao 
gồm 2 bê sinh 
đôi 
Fukushima 
et al. (Viện 
Nuôi 
chín in vitro 
không 
Caffein 
+ Ca++ 
Tử 
cung thỏ 
3 bê 
Quốc gia 
Hyogo, 1987) 
hormone 
Kajiwara et 
al. (Trường 
ĐH 
Kagoshima, 1987) 
Nuôi 
chín in vitro 
cùng với 
hormone 
Caffein 
+ Ca++ 
Nuôi 
cấy in vitro 
cùng T.bào 
Cumulus 
Phôinang 
trương nở? 
(13%) 
Fukuda et 
al. (Trường 
Kitazaro, 1987) 
Nuôi 
chín in vitro 
cùng với 
hormone 
Caffein 
+ Ca++ 
Nuôi 
cấy in vitro 
cùng T.bào 
Cumulus 
Phát triển 
thành phôi nang 
(11%) 
Aoyagi et 
al. (Trường 
ĐH 
Kitazato, 1987) 
Nuôi 
chín in vitro 
cùng với 
hormone 
Caffein 
+ Ca++ 
Nuôi 
cấy in vitro 
cùng T.bào 
Cumulus 
3 bê sinh 
ra 
Hiệp hội Nuôi Caffein ống 40-50 bò 
phát triển 
gia súc, 
1987 
chín in vitro 
cùng với 
hormone 
+ Ca++ dẫn trứng thỏ chửa 
Trong năm 1985, Hanada et al. (Viện Chăn nuôi quốc gia - Bộ Nông 
Lâm Ngư nghiệp) thành công trong việc tạo ra một con bê IVF, tuy nó bị 
chết sau khi sinh. Trước đó vài năm, đã có nhiều kết quả được báo cáo ở 
nhiều viện nghiên cứu của Nhật, đáng chú ý nhất là báo cáo của Shimodaira 
et al. (1986), nhân viên Trường Kitazato và Trường Kagoshima. Shimodaira 
cấy truyền trứng đã thụ tinh đông lạnh (phôi dâu và phôi nang thu hoạch từ 
tử cung thỏ), trong khi tại hai trường đại học trên,? người ta nuôi cấy in vitro 
các tế bào trứng đã được IVF thay cho việc nuôi cấy trong tử cung thỏ đến 
khi chúng phát triển thành phôi nang, sau đó được cấy truyền và phát triển 
đến khi bò mẹ đẻ. Trong tương lai gần, các tế bào trứng sau khi IVF, được 
đông lạnh để bảo quản, xác định giới tính và nuôi cấy in vitro cho đến khi 
phát triển thành phôi nang. 
3. Hoạt hoá tinh trùng 
Tinh trùng sau khi khai thác từ bò đực, nếu không được hoạt hoá, 
không thể tiến hành IVF. Cần đặt tinh trùng trong một ống khoảng 4-6 giờ 
để làm tăng khả năng thụ tinh của chúng. Mặc dù có nhiều điều không thể 
làm sáng tỏ được về vấn đề tại sao hoạt hoá lại là nguyên cớ, có thể có một 
số yếu tố cản trở chống lại sự thụ tinh đã được loại bỏ sau khi hoạt hoá. Có 
một số thay đổi ở đầu tinh trùng (sau khi được hoạt hoá) ngay trước lúc thâm 
nhập vào tế bào trứng và được gọi là phản ứng acrosome. 
Với chuột nhắt, chuột cống, thỏ và người: có thể dễ dàng tạo con non 
từ IVF, vì tinh trùng có thể được hoạt hoá bằng cách rửa vài lần để loại bỏ 
tinh thanh (seminal plasma) và nuôi cấy một thời gian trong môi trường nuôi 
cấy. Nhưng phương pháp này vẫn chưa có hiệu quả đối với bò. Hiện nay đã 
có một phương pháp thu hoạch tinh từ cơ quan sinh dục, sau đó nuôi cấy 
chúng trong đường sinh dục đã được lấy ra ngoài của bò cái hoặc từ một số 
động vật khác, hoặc nuôi cấy chúng trong môi trường bao gồm dịch nang 
trứng hoặc một số hoá chất khác (Ca++, heparin, chondroitin, v.v...). 
Brackett et al. (1982) là người đầu tiên tạo được bê từ IVF, và một số 
tác gia? khác đã tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau. 
1.1. Phương pháp của Brackett? et al. (1982) 
Nuôi cấy tinh trùng trong dịch chứa nồng độ ion cao (HIS, khoảng 
380 mOsm/kg) trong 5 phút, rửa chúng và nuôi cấy tiếp trong 3/4 đến 5 giờ. 
Phương pháp xử lý bằng HIS này được phát triển như là một cách để loại bỏ 
tinh thanh bám trên bề mặt tinh trùngđực giống. Một số tác gia cho rằng 
phương pháp này có hiệu quả đối với tinh trùng thỏ và bò, trong khi một số 
khác lại thất bại. Phương pháp này có thể có ích trong quá trình hoạt hoá. 
1.2. Phương pháp của Hanada et al. (1986) 
Pha loãng tinh dịch bằng cách thêm môi trường nuôi cấy tổng hợp có 
chứa một ít caffein nhưng không có albumin huyết thanh bò (BSA). Xử lý 
chúng cùng với ion A trong một thời gian ngắn (0,1mM, 60 giây) và hoạt 
hoá trong môi trường nuôi cấy có bổ sung BSA. Ion A được cho là giúp tinh 
trùng lấy Ca++ và có hiệu lực đối với phản ứng acrosome tinh trùng, làm cho 
chúng dễ thâm nhập vào trứng. 
1.3. Phương pháp của Lu et al. (1987) { kế thừa phương pháp của 
Parrish (1986)} 
Xử lý tinh trùng đông lạnh bằng cách nhúng ngập tinh trùng ở phần 
thấp của môi trường nuôi cấy, giữ chúng ở đấy và sử dụng những tinh trùng 
bơi lên phía trên (tinh trùng hoạt động- active sperms). Phương pháp này 
thường áp dụng cho người, sau đó xử lý chúng 15 phút trong heparin để hoạt 
hoá. Điều chỉnh pH môi trường đạt 7,4 để hoạt hoá và 7,8 để thụ tinh vì pH 
có tác động tới cả hai quá trình này. 
4. Nuôi chín tế bào trứng 
Tinh trùng đã hoạt hoá vẫn có thể không có khả năng thụ tinh tế bào 
trứng, sự thâm nhập của chúng tạo nên sự thụ tinh không bình thường. Khi 
sử dụng tế bào trứng gần rụng hoặc đã rụng trong tử cung (giai đoạn phân 
chia chín thứ cấp), có thể tạo được sự thụ tinh bình thường. ở người, dễ dàng 
nhận biết nang trứng chín trong buồng trứng nhờ đo hàm lượng hormone 
hoặc dùng phương pháp đo siêu âm. ở bò, đã có các nghiên cứu đo bằng siêu 
âm để xác định thời điểm trứng rụng. Có thể dùng nội soi để thu hoạch tế 
bào trứng ngay trước hoặc sau khi rụng. 
Có thể sử dụng tế bào trứng chưa chín cho IVF bằng cách nuôi chín 
chúng bên ngoài cơ thể. Hiện nay có thể dễ dàng nuôi cấy tế bào trứng đến 
giai đoạn phân chia chín thứ cấp. Tuy nhiên tỷ lệ thụ tinh in vitro thành công 
vẫn còn thấp (30-60%), có thể là do quá trình thụ tinh không chỉ phụ thuộc 
vào sự chín của nhân, mà còn phụ thuộc vào chất lượng của nhân, tế bào 
chất và độ tròn rõ của vòng trong suốt. Đã có nhiều nghiên cứu về toàn bộ 
các vấn đề liên quan đến nang trứng, bao gồm cả ảnh hưởng của các loại 
hormone và các tế bào lớp màng hạt. 
5. Sự phát triển sau khi thụ tinh 
Các nghiên cứu gần đây về IVF bò đã thành công 60-90% (tinh trùng 
thâm nhập được vào tế bào trứng và tạo tiền nhân). Vấn đề quan trọng hiện 
nay là cấy truyền các trứng đã thụ tinh và theo dõi cho tới lúc bê sinh ra. Các 
tế bào trứng cần đạt tới giai đoạn 8 tế bào trước khi cấy truyền vào tử cung 
bò mẹ (phương pháp không phẫu thuật). Hiện nay thường dùng các tế bào 
trứng thụ tinh phát triển tới 2-4 tế bào để? cấy truyền vào tử cung thỏ hoặc 
cừu; sau đó 4-6 ngày, cấy chuyển trở lại vào tử cung bò. Khi đó chúng đã 
phát triển thành phôi dâu hoặc phôi nang (bảng 3). Trong tương lai gần có 
thể phát triển trứng đã thụ tinh trong môi trường nuôi cấy tổng hợp. Các quá 
trình nuôi chín, thụ tinh và phát triển (tới phôi nang) sẽ được tiến hành trong 
phòng thí nghiệm, nhằm tăng cường khả năng thực hành cấy truyền phôi và 
bảo quản lạnh phôi. 
6. ứng dụng của kỹ thuật IVF 
ở người, IVF dùng chữa chứng vô sinh cho những phụ nữ có buồng 
trứng và tử cung bình thường nhưng ống dẫn trứng không bình thường hoặc 
cho những đàn ông không có đủ tinh trùng. 
ở bò, IVF đang có triển vọng ứng dụng rộng rãi, và nó bao gồm cả 
việc cấy truyền phôi (bảng 6). 
Bảng 6. ứng dụng IVF cho bò và cấy truyền phôi 
 Khả năng ứng dụng 
1 Lai tạo nhiều giống khác nhau trong cùng thời điểm 
2 Sử dụng tế bào nang trứng chưa chín 
3 Tạo bê sinh đôi. Bảo quản lạnh các tế bào trứng. Tạo trứng thụ 
tinh có 2-4 tế bào, áp dụng cho xác định giới tính, cấy chuyển nhân 
và gen. 
4 Tạo bê từ các bò khó phối giống hoặc bị bệnh nặng 
5 Đóng góp cho các nghiên cứu về sinh lý thụ tinh, v.v... 
Hiện nay mỗi bò chỉ có thể thu được 4-6 tế bào trứng phù hợp với việc 
cấy chuyển (kể cả khi gây siêu bài noãn) và số lượng này còn hạn chế hơn 
nữa nếu phối cho bò trong cùng một giống. Nếu các phương pháp được thiết 
lập để sử dụng số lượng lớn các tế bào trứng thu hoạch được sau khi gây 
rụng trứng nhiều và tế bào nang trứng chín in vitro để đem thụ tinh với tinh 
trùng thuộc giống bò khác, thì việc thụ tinh của nhiều giống khác nhau có 
thể tiến hành cùng một lúc. Tuy nhiên, nếu tìm ra các mối tương quan giữa 
tỷ lệ thành công của IVF và tỷ lệ thành công của thụ tinh nhân tạo thì sẽ giúp 
đánh giá được khả năng của bò đực lấy tinh. 
Một bê cái mới sinh ra có khoảng 500.000 nang trứng thứ cấp trên 
buồng trứng. Nếu thu thập các tế bào trứng non từ các nang trứng đó, nuôi 
chín in vitro và sử dụng cho IVF, sẽ tạo ra được số lượng lớn tế bào trứng 
thụ tinh. Các tế bào trứng thụ tinh này có thể dùng để tạo bê sinh đôi, bảo 
quản lạnh, tạo tế bào trứng thụ tinh có 2-4 tế bào, xác định giới tính, cấy 
chuyển nhân và gen, v.v... Hơn nữa, nếu các tế bào trứng được bảo quản 
lạnh trước khi thụ tinh sẽ giúp chữa vô sinh cho các con bò có ống dẫn trứng 
không bình thường. Có thể cấy chuyển gen của những con bò có chất lượng 
cao nhưng bị bệnh nặng do phối giống lặp lại nhiều lần. Quá trình cấy truyền 
phôi bò sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong các nghiên cứu cơ bản 
đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh, sự phát triển trong 
giai đoạn đầu? của tế bào trứng thụ tinh, v.v..../. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 6_7039.pdf 6_7039.pdf