Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 –1986) Đảng ta đã đề ra chủ 
trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch 
tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý 
luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay 
đổi căn bản, sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa 
nhận. Kinh tế quốc doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước, 
đồng thời thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài 
quốc doanh thì nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng 
được đổi mới. 
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng 
ta luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong 
nền kinh tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn 
đề lý luận kinh tế trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn 
lãnh đạo đất nước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa. Hiệnnay lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả 
về nhận thức lý luận và thực tiễn. 
Ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định 
trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế 
nhà nước thì khuvực doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu có vị trí 
đặc biệt. Nhưng thực trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước của nước ta 
hiện nay thì chưa thể hiện được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh 
tế, một số ngành, một số lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước không năng 
động bằng khu vực kinh tế tư nhân. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên 
nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ chức và vận hành doanh 
nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp nhà nước có thể thể 
hiện được vai trò chủđạo của mình trong nền kinh tế quốc dân thì vấn đề tất 
yếu là ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp lý. Em 
chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam hiện 
nay" để viết bài đề án Kinh tế chính trị.
              
                                            
                                
            
 
            
                 38 trang
38 trang | 
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 1 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) Đảng ta đã đề ra chủ 
trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch 
tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý 
luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay 
đổi căn bản, sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa 
nhận. Kinh tế quốc doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước, 
đồng thời thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài 
quốc doanh thì nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng 
được đổi mới. 
 Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng 
ta luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong 
nền kinh tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn 
đề lý luận kinh tế trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn 
lãnh đạo đất nước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa. Hiện nay lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả 
về nhận thức lý luận và thực tiễn. 
 Ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định 
trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế 
nhà nước thì khu vực doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu có vị trí 
đặc biệt. Nhưng thực trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước của nước ta 
hiện nay thì chưa thể hiện được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh 
tế, một số ngành, một số lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước không năng 
động bằng khu vực kinh tế tư nhân. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên 
nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ chức và vận hành doanh 
nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp nhà nước có thể thể 
hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân thì vấn đề tất 
yếu là ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp lý. Em 
chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam hiện 
nay" để viết bài đề án Kinh tế chính trị. 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 2 
 CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ 
 DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 
 I / TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN 
1. Định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước ( DNNN ) 
 Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 1995 thì DNNN là tổ chức 
kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động 
kinh doanh hoặc công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do 
nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân 
sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi 
doanh nghiệp quản lý. DNNN là bộ phận chủ yếu của khu vực kinh tế nhà 
nước – một lực lượng vật chất cơ bản, đảm bảo cho việc thực hiện các mục 
tiêu kinh tế xã hội của nhà nước 
2. Các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước 
 - Xét theo lĩnh vực hoạt động: Hoạt động trực tiếp trong sản xuất kinh 
doanh hàng hoá dịch vụ và hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho quá trình 
tái sản xuất xã hội 
 - Xét về hình thức tổ chức: Khu vực KTNN bao gồm nhiều bộ phận hoạt 
động trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi 
bộ phận có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm thực hiện vai 
trò chủ đạo của khu vực KTNN ở một mức độ nhất định. Cụ thể như sau: 
 Ngân sách nhà nước:Thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có 
nhiệm vụ điều chỉnh quản lý, kiểm soạt các hoạt động của khu vực KTNN 
và các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định. Có tác 
dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động knh doanh tiền tệ, đặc 
biệt là xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế 
xã hội 
 Kho bạc nhà nước: Với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà 
nước đồng thời kiểm soát quá trình thu chi ngân sách 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 3 
 Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực KTNN, nhằm bảo 
đảm cho khu vực này hoạt động bình thường trong mọi tình huống, là lực 
lượng vật chất để nhà nước điều tiết, quản lý bình ổn giá thị trường, đảm bảo 
ổn định kinh tế xã hội 
 Các tổ chức sự nghiệp có thu: Hoạt động gần giống như DNNN trong 
cung ứng một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ hành 
chính công 
 Hệ thống DNNN: Đây là bộ phận chủ yếu then chốt của khu vực KTNN. 
Để được gọi là một DNNN thì cần phải có ba điều kiện 
 Thứ nhất: nhà nước là cổ đông chính, có thể nhà nước sở hữu 100% vốn, 
sở hữu cổ phần chi phối ( trên 51 % ) hoặc sở hữu cổ phần đặc biệt ( cổ phần 
quy định quyền quản lý của nhà nước ) 
 Thứ hai: doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để 
bán 
 Thứ ba: Có hoạch toán lỗi lãi 
 Nếu thiếu điều kiện một thì đó là doanh nghiệp tư nhân và thiếu điều kiện 
hai và ba thì đó không phải là doanh nghiệp mà là cơ quan nhà nước 
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN 
3.1 Sự cần thiết của DNNN 
 Nhìn lại quá trình lịch sử, chúng ta đi lên từ cơ sở vật chất, kỹ thuật rất 
nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế mất cân đối trầm trọng, lực lượng thù địch 
bao vây cấm vận kinh tế triệt để. Trong hoàn cảnh đó chúng ta đã xây dựng 
một nền kinh tế độc lập, tự chủ bằng biện pháp huy động nguồn lực lớn của 
đất nước và viện trợ quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền 
kinh tế quốc dân dưới hình thức DNNN làm nòng cốt, cùng với khu vực 
kinh tế hợp tác xã làm nền tảng đáp ứng những nhu cầu của xã hội. Thực 
tiễn đã chứng minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không phát 
triển kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã để xây dựng hậu phương vững 
mạnh, giải quyết hậu cần tại chỗ thì không thể huy động tổng lực của dân 
tộc, chi viện cho tiền tuyến để tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Sau khi thống 
nhất đất nước nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi lệnh bao vây cấm vận 
kinh tế của đế quốc Mỹ, sự duy trì quá lâu của cơ chế tập trung quan liêu, 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 4 
bao cấp trong điều xây dựng hoà bình và sau đó là sự tan rã của hệ thống 
XHCN. Đại hội VI đã đề ra chủ trương đổi mới và phát triển kinh tế hàng 
hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội 
chủ nghĩa. Từ đó đến nay kiên trì với chủ trương này nền kinh tế của nước ta 
đã phát triển khá cao trong nhiều năm và thoát khỏi khủng hoảng đảm bảo 
được những cân đối lớn, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn 
định chính trị xã hội tạo thế và lực mới để tiếp tục đưa sự nghiệp mới đi lên 
 Nếu nhìn hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đóng góp của DNNN 
hiện nay rõ ràng là DNNN đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền 
kinh tế nước ta, thể hiện trên những nét chủ yếu sau: 
 - DNNN đang nắm giữ một số ngành, lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở 
vật chất kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất 
nước, nắm toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có tính huyết 
mạch, hầu hết các doanh nghiệp lớn là các doanh nghiệp trong các ngành 
xây dựng ( về giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp và dân dụng ), cơ khí chế 
tạo máy, luyện kim, xi măng, điện tử, hoá chất, điện dầu khí, thông tin liên 
lạc, vận tải đường sắt, đường biển, đường không, ô tô ... , sản xuất hàng 
công nghệ tiêu dùng, chế biến nông thuỷ, hải sản, nắm giữ một tỉ lệ quan 
trọng trong những ngành kinh doanh dịch vụ, thương mại nhập khẩu chiếm 
thị phần áp đảo trong huy đọng vốn và cho vay 
 Phần của DNNN trong GDP chiếm tỷ trọng năm 1992 là 40.12%, năm 
1996 là 39.9%, năm 1998 là 41.2%, năm 1999 là 40.2%, năm 2000 là 
39.5%. Cụthể trọng phần DNNN trong một số ngành như: 80% công nghệ 
khai thác, trên 60% công nghệ chế biến, trên 90%công nghệ điện – gas– dầu 
khí – cung cấp nước, trên 82% vận chuyển hàng hoá, 50% vận hành khách, 
chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong sản xuất phân bón hoá học 99.8%, thuốc trừ 
sâu 93.6%, axít sunfuric và xút 100%, lốp ô tô 100%, lốp xe đạp 80%, pin 
100%, chế tạo động cơ điezel loại nhỏ 100%, 85% năng lực kéo sợi, 50% 
năng lực dệt thoi, 30% năng lực dệt kim và khoảng dưới 50% năng lực may 
mặc, giầy dép, chiếm tỷ trọng 70% bán buôn, 20% bán lẻ. Hệ thống các 
ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm tỷ phần áp đảo trong huy động vốn 
chiếm 80% thị phần và cho vay 74% thị phần đối với nền kinh tế Các 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 5 
DNNN đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết quan hệ cung cầu, ổn định 
giá cả, chống lạm pháp, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị 
trường 
 DNNN chiếm một phần rất quan trọng trong xuất nhập khẩu, trong đó 
DNNN giữ tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế xuất khẩu, riêng công nghiệp 
năm 1999 đã xuất khẩu được 6.17 tỷ USD ( chủ yếu do các DNNN ), chiếm 
54% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế, tổng công ty lương 
thực miền nam xuất khẩu gạo chiếm 60-70% so với cả nước. 
 Đóng góp nguồn thu nhập lớn và ổn định cho ngân sách nhà nước năm 
1999 thuế thu từ DNNN ( thuế VAT , thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền sử 
dụng vốn ) chiếm 39.25%, riêng 17 TCT năm 1999 nộp ngân sách nhà nước 
23478 tỷ đồng, tăng 20.7% so với năm 1998. Năm 2000 DNNN chiếm 
39.2% tổng thu ngân sách cả nước 
 Trong khi nhà nước không đủ vốn ngân sách, cấp vốn lưu động cho kinh 
doanh của DNNN theo quy định thì nhiều doanh nghiệp đã tiết kiệm, hình 
thành vốn tự bổ xung, năng động tìm vốn bên ngoài bao gồm vốn vay của tổ 
chức tín dụng và vay của công nhân viên trong doanh nghiệp. Vốn tự tích 
luỹ, tự bổ xung chiếm 27.8% tổng vốn nhà nước của DNNN đến cuối năm 
2000, vốn tự bổ xung của 17 TCT là 18038 tỷ đồng, chiếm 2205% tổng số 
vốn nhà nước của TCT 91 
 Trong lúc các thành phần kinh tế khác chưa vươn lên được thì DNNN là 
đối tác chính trong liên doanh, liên kết với bên ngoài, đồng thời DNNN cũng 
thực hiện hạ tầng kỹ thuật cần thiết để thu hút các doanh nghiệp có vốn 
trong nước và ngoaì nước đầu tư 
 DNNN đã tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, là một trong nhân tố có tầm 
quan trọng quyết định đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, hàng 
hoá, chuyển từ thiếu sang đáp ứng được nhu cầu cơ bản nông sản, thực phẩm 
chất lượng ngày một cao của nhân dân và có phần xuất khẩu, chủ yếu thông 
qua việc xây dựng các công trình thuỷ lợi cung cấp điện, xây dựng các 
đường giao thông huyết mạch, cung cấp giống cây trồng, con, chuyển giao 
kỹ thuật và bước đầu phát triển công nghệ chế biến. Một số nông, lâm 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 6 
trường đã phát huy được vai trò trung tâm kinh tế, văn hoá, chuyển giao 
công nghệ trên địa bàn. 
 Điển hình như trường Sông Hậu trả lương cho 130 giáo viên và xây dựng 
cơ sở trường lớp cho 3000 học sinh từ mẫu giáo đến trung học, công ty chè 
Mộc Châu hàng năm đầu tư 100 triệu để sửa chữa và xây mới trường học, 
nhà trẻ, mẫu giáo, cải tạo 705 km đường giao thông liên bản, tổng công ty 
cà phê từ năm 1996 đén nay dã đàu tư hàng 100 tỷ để xây dựng 100 km 
đường giao thông ( có 25 km đường nhựa ), 150 km đường điện trung hạ 
thế, 50000 m2 trường học, 20000 m2 nhà trẻ mẫu giáo, làm mới và nâng cấp 
58 hồ, đập 
 Hỗ trợ cho sự phát triển các vùng miền núi và các vùng xa, vùng sâu. ở 
đó hiệu quả đầu tư kinh doanh thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, có nhiều rủi ro 
kinh doanh nhưng lại là vùng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của quốc 
gia và thực hiện các chính sách dân tộc của đảng 
 Khu vực DNNN nhiều năm qua cũng là nơi tập trung và đào luyện một bộ 
phận quan trọng trong đội ngũ giai cấp công nhân và cung cấp nhiều cán bộ 
lãnh đạo ưu tú, trung kiên cho đảng nhà nước và quân đội 
 DNNN cũng thức sự đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương: uống 
nước nhớ nguồn, xoá đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả cảu những vùng bị 
thiên tai, cứu trợ xã hội, tham gia các hoạt động nhân đạo từ thiện, nhường 
cơm xẻ áo 
3.2 Sự cần phải phát triển DNNN 
 Tại hội nghị thứ ba ban chấp hành trung ương đảng khoá IX đồng chí 
bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu bế nạc hội nghị, trong đó đồng 
chí tổng bí thư đã nêu lên tâm quan trọng của DNNN và sự đổi mới DNNN 
trong tình hình nước ta hiện nay. 
 Tại hội nghị trung ưong đã dành phàn lớn thời gian để thảo luận và thông 
qua nghị quyết: “ Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả 
của DNNN”. Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đường lối kinh tế của 
đảng. Tổng kết 15 năm đổi mới và xác định phương hướng chiến lược phát 
triển kinh tế xã hội trong thời mới. Đại hội lần thứ IX của đảng đã khẳng 
định “ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 7 
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày 
càng trở thành nền tảng vững chắc. KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong 
nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định 
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng 
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất 
lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Hội nghị trung ương 
lần này bàn và ra nghị quyết để thực hiện nghị quyết đại hội đảng, bảo đảm 
DNNN có vị trí then chốt góp phần chủ yếu để KTNN làm tốt vai trò chủ 
đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao 
hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đẩy 
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đề án và tờ trình của 
Bộ chính trị, trung ương đã tập trung thảo luận về đánh giá hoạt động của 
DNNN trong những năm đổi mới, xác định quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, 
nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả 
DNNN. Bộ chính trị đã trình bầy ý kiến tiếp thu những vấn đề mà đại đa số 
các đại biểu đã nêu. Trong quá trình đổi mới đảng ta chủ trương phát triển 
kinh tế nhiều thành phần để góp phần phát huy sức mạnh của toàn dân tộc 
phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh cong nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng 
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là chính sách nhất quán, lâu dài 
trong cả thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Để thực hiện có hiệu quả chính sách 
đó trung ương có trách nhiệm xây dựng phương hướng, nội dung, giải pháp 
cụ thể của từng thành phần kinh tế theo tinh thần nghị quyết của đại hội 
đảng. Trung ương bàn việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao 
hiệu quả DNNN là để góp phần bảo đảm cho KTNN giữ vững vai trò chủ 
đạo trong nền kinh tế quốc dân, một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính 
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chứ không hề coi nhẹ việc phát 
triển các thành phần kinh tế khác. Chúng ta đã có nhiều chủ trương tạo thuận 
lợi cho các loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển trong khuôn khổ luật 
pháp giúp các doanh nghiệp có thêm điều kiện tiếp cận thị trường trong nước 
và thế giới chuẩn bị cho việc thực hiện các cam kết trong quá trình chủ động 
hội nhập có hiệu quả kinh tế quốc tế. Sắp tới chúng ta sẽ tiếp tục xây dựng 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 8 
các chính sách nhằm phát huy sức mạnh của các thành phần kt theo đường 
lối của đảng 
 Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là việc mà 
ban chấp hành trung ương nhiều khoá đã quan tâm, được tiến hành ngay từ 
thời kỳ đổi mới và nhất là trong 10 năm qua. Đánh giá những việc làm được 
cũng như chưa làm được còn có những ý kiến khác nhau nhưng chủ yếu là 
khác nhau về múc độ vì trong thực tế còn có những yếu tố chưa được xem 
xét đầy đủ, tuy nhiên khi đánh giá cần dựa trên quan điểm lịch sử, xét tới bối 
cảnh thế giới, trong nước hơn 10 năm qua và hiệu quả kinh tế chính trị, xã 
hội, để nhìn nhận đúng mức vai trò và sự đóng góp của DNNN trong thời kỳ 
đổi mới. Trong thời gian qua chúng ta đã hoàn thành khung pháp lý tương 
đối cơ bản để chuyển DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự 
quản lý của nhà nước, xác lập dần quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong 
sản xuất kinh doanh xoá dần bao cấp, bảo đảm các chính sách xã hội trong 
quá trình sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Nhiều 
DNNN đã đứng vững trước những thử thách to lớn, từng bước được sắp xếp, 
đổi mới, phát triển ngày càng thích ứng hơn trong quá trình chuyển sang cơ 
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, số doanh nghiệp làm ăn có lãi, 
có tích luỹ tăng lên, nhìn chung đã có những chuyển biến tích cực cả về vai 
trò cơ cấu năng lực và hiệu quả. Đồng thời trung ương cũng đã chỉ ra những 
mặt tồn tại như môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, các yếu tố cuỉa thị 
trường hình thành chưa đồng bộ, cơ chế quản lý vĩ mô còn những điểm chưa 
phù hợp, DNNN chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ, thực hiện 
hoạch toán kinh doanh, chưa sử lý tốt mối quan hệ về lợi ích của doanh 
nghiệp, chưa tạo được động lực mạnh mẽ và xác định động lực rõ ràng để 
DNNN hoạt động năng động, có hiệu quả ngày càng cao, hiệu quả hoạt động 
còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự đàu tư của nhà nước, 
cồn nhiều DNNN thua lỗ, công nợ nặng nề, phần lớn công nghệ lạc hậu, lao 
động dôi dư còn nhiều, vai trò lãnh đạo của đảng chưa ngang tầm và còn yếu 
kém, sự yếu kém của không ít DNNN do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên 
nhân chủ quan và khách quan, nhận rõ những yếu kém là để quyết tâm sắp 
xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Chúng ta không thể chấp nhận 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 9 
quan điểm coi trọng DNNN thì “tất yếu dẫn tới kém hiệu quả” như một số ý 
kiến nêu lên ở nơi này nơi khác. Những ý kiến như thế xuất phát từ định 
kiến, thiếu khách quan sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của DNNN, không quan 
tâm tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả của DNNN 
 Như đã trình bày ở trên việc tiếp tục, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu 
quả DNNN là vấn đề kinh tế nhưng có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nghị quyết 
có nhiều nội dung đề cập các vấn đề sắp xếp, hoàn thiện hơn nữa tổ chức và 
quản lý, xác định những việc cần phải làm để tạo động lực mới cho DNNN, 
đẩy mạnh thực hiện cổ phần hoá, coi đây là một khâu quan trọng để tiếp tục 
đổi mới và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN. Mỗi nội dung đều 
cụ thể hoá các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đã ghi trong nghị quyết 
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng; nhưng vì là vấn đề lớn về 
chính trị cho nên nghị quyết đã nêu những quan điểm chỉ đạo. Các quan 
điểm chỉ đạo đó phải được quán triệt trong việc thực hiện các mục tiêu, 
nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Trung ương khẳng định tư tưởng của nghị 
quyết đại hội IX, xác định vai trò chủ đạo của KTNN, xác định DNNN là 
lực lượng nòng cốt của KTNN, giữ vị trí thên chốt trong nền kinh tế, là công 
cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh 
tế. KTNN, DNNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã 
hội chủ nghĩa, phát triển và ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. 
Vì vậy DNNN phải không ngừng được sắp xếp, đổimới, phát triển, có trình 
độ công nghệ và quản lý tiên tiến, không ngừng nâng cao hiệu quả. Trên cơ 
sở các quan điểm đó mà thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu DNNN, chuyển 
các DNNN sang thực sự kinh doanh theo cơ chế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh và hợp tác với các 
doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác 
 Đã là doanh nghiệp phải tính đến hiệu quả kinh doanh. Việc sắp xếp, đổi 
mới, phát triển các DNNN đều hướng tới nâng cao hiệu quả, vì có hiệu quả 
mới có thể nêu gương, hướng dẫn và góp phần tăng tiềm lực KTNN để giữ 
vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, và một nền kinh tế 
định hướng xã hội chủ nghĩa phải được xem xét đến hiệu quả kinh tế xã hội 
tổng thể hướng tới mục tiêu của CNXH 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 10 
 Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là vấn đề rất hệ 
trọng trong đường lối phát triển kinh tế, đồng thời rất nhạy cảm về chính trị, 
liên quan tới sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quá trình 
nhà nước thực hiện có nhiều vấn đề mới đặt ra. Do đó vừa phải tiến hành 
đồng bộ, khẩn trương nhưng vẫn phải vững chắc, có chương trình, kế hoạch 
cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, bước đi phù hợp, vừa làm vừa tìm tòi, rút 
kinh nghiệm, boả đảm ổn định và phát triển. Việc gì đã rõ, đã có nghị quyết 
thì phải triển khai thực hiện kiên quyết khẩn trương. Vấn đề gì chưa đủ rõ thì 
phải tiếp tục nghiên cứu; tổ chức làm thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm 
để có bước đi thích hợp, vừa tích cực vừa vững chắc, phù hợp với luật pháp. 
Đó là tinh thân của các giải pháp trong nghị quyết. Vì là việc rất hệ trọng 
cho nên các cấp uỷ đảng phải tăng cường kiểm tra việc tổ chức thực hiện, 
kịp thời phát huy ưư điểm, uốn nắn các lệnh lạc. Cùng với các quá trình trên 
phải nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm xây dựng mô hình tổ chức đảng, tổ 
chức công đoàn và các đoàn thể chính trị trong các loại hình DNNN. Đặc coi 
trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh 
nghiệp giỏi, có phẩm chất và năng lực, nghiệp vụ vững vàng; đội ngũ cán bộ 
kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao; chú trong chăm sóc đời sống công nhân 
và phát huy quyền làm chủ của công nhân trong các doanh nghiệp. Trong 
quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, các cấp uỷ đảng phải hết sức quan 
tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội đặt ra, không để khó khăn cho người lao 
động và doanh nghiệp 
 Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu ký tưỏng của đảng ta. Mục tiêu 
đó không chỉ thể hiện trong phương hướng cơ bản mà còn thể hiện trong 
những chủ trương, việc làm cụ thể. Đại hội IX của đảng đã thông qua kế 
hoạch 5 năm, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 đưa nước ta ra khỏi tình 
trạng kém phát triển và trong 20 năm về cơ bản đưa nước ta trở thành một 
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã 
hội công bằng, dân chủ, văn minh 
 Đường lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN trong những năm đầu 
của thế kỷ XXI đã được đại hội xác định. Ban chấp hành trung ương được 
đại hội tín nhiệm bầu ra, có trách nhiệm tổ chức thực hiện tốt nhất nghị 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 11 
quyết đại hội; trên cơ sở thống nhất nhận thức để đi đến hành động thống 
nhất, lời nói đi đôi với việc làm, kết hợp thực hiện những nhiệm vụ cơ bản 
lâu dài với những việc cụ thể, trước mắt giành thắng lợi cho từng năm theo 
mục tiêu, nhiệm vụ đại hội đề ra. Từ nay đến cuối năm phải tập trung hết sức 
thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế – xã hội năm 2001, năm mở đầu thực hiện 
nghị quyết đại hội đảng, vì bên cạnh những thuận lợi đang có không ít khó 
khăn và nhiều vấn đề mới phải giải quyết, đồng thời cần theo dõi chặt chẽ, 
quan tâm việc phòng chống thiên tai. Triển khai ngay việc thực hiện chỉ thị 
của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây, chỉnh đốn đảng 
gắn liền với cải cách hành chính nhà nước, triển khai và thực hiện đồng bộ 
các giải pháp chống tham nhũng đang nổi lên với tinh thân thẳng thắn, công 
minh, để người có khuyết điểm phải được phê bình, chịu kỷ luật, người có 
tội phải bị sử tội, bất kể họ là ai; giải quyết những bức xúc về các tệ nạn xã 
hội, các sản phẩm văn hoá đồi truỵ đang lan tràn ngoài xã hội ... Đó là những 
việc trước mắt cần thực hiện tốt, kinh tế – xã hội tiếp tục phát triển, đời sống 
nhân dân được cải thiện, nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội được đẩy lùi 
một bước ... sẽ tạo đà phấn khởi trong xã hội, thể hiện trách nhiệm của ban 
chấp hành trung ương đối với toàn đảng và toàn xã hội . 
 II. Vai trò then chốt của DNNN 
 Lực lượng DNNN hàng năm đóng góp khoảng 40% trong cơ cấu GDP 
của nước ta, chiếm giữ khoảng 70% vốn và tài sản cố định của nền kinh tế. 
DNNN đang là lực lượng chủ yếu trong sản xuất công nghiệp, trong hoạt 
động kinh doanh xuất nhập khẩu, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tín 
dụng. Nhìn chung lực lượng DNNN đang là lực lượng then chốt trong các 
ngành kinh tế quan trọng của đất nước, cá biệt có một số ngành có vị trí độc 
quyền kinh doanh. Từ năm 1995 hàng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28% 
nguồn thu thuế trong nước, nếu tính cả các khoản thu thuế và phí được thu 
thôngqua DNNN thì đóng góp khỏng 60% các nguồn thu thuế và phí được 
thu thông qua DNNN. DNNN đang sử dụng khoảng 15% lực lượng lao động 
trong các ngành phi nông nghiệp. Mức tăng trưởng hàng năm của DNNN 
xấp xỉ mức tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng xấp xỉ ngoài quốc doanh 
trong nước. Tóm lại: nếu chỉ xét về quy mô, tài sản sự đóng góp vào GDP và 
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ 
 12 
tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, nguồn thu ngân sách nhà nước thì 
DNNN vẫn có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. 
CHƯƠNG II 
THỰC TRẠNG DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 
 I / QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI DNNN 
 Ở nước ta, quá trình đổi mới DNNN gắn liền với đổi mới kinh tế nói 
chung và đổi mới DNNN luôn là khâu trung tâm của đổi mới kinh tế. Đổi 
mới DNNN bao gồm hai mặt: mặt thứ nhất chủ gồm đổi mới cơ chế quản lý 
đối với DNNN ( quan hệ quản lý nhà nước – doanh nghiệp, mức độ, hình 
thức phân quyền, giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp trên các mặt như kế 
hoạch, tài chính, thị trường, đầu tư, sử dụng lao động ...). Mặt thứ h
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Th7921c tr7841ng v gi7843i php pht tri7875n DNNN 7903 Vi7879.pdf Th7921c tr7841ng v gi7843i php pht tri7875n DNNN 7903 Vi7879.pdf