Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
324 
THỰC TRẠNG VỀ TÍNH CHỦ ĐỘNG TRONG HỌC TẬP CỦA SINH 
VIÊN KHOA KINH TẾ - TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN 
Nay H’Nga*, Phạm Thị Thu Hà, Rcom H Loanh, 
Y Sa Yan Niê, Phạm Thị Ngọc Yên 
Trường Đại học Tây Nguyên 
*Tác giả liên lạc: 
[email protected] 
TÓM TẮT 
Đề tài sử dụng dữ liệu được thu thập thông qua kết quả điều tra 200 sinh viên để 
đánh thực trạng về tính chủ động trong học tập của sinh viên Khoa Kinh tế, 
Trường Đại học Tây Nguyên. Nội dung của bài viết này tập trung (i) đánh giá 
thực trạng tính chủ động trong học tập, (ii) phân tích các yếu tố tác động đến tính 
chủ động trong học tập và (iii) đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ 
động trong học tập của sinh viên. Kết quả phân tích cho thấy tính chủ động trong 
học tập của sinh khoa Kinh tế còn khá hạn chế từ việc nắm bắt quy chế cho đến 
các hoạt động trong và sau giờ học. Tính chủ động của sinh viên chịu tác động 
rất lớn từ phía gia đình, nhà trường, giảng viên cũng như nhận thức của bản thân 
sinh viên. 
Từ khóa: Học tập, tính chủ động trong học tập, sinh viên. 
SENSE OF INITIATIVE IN LEARNING OF ECONOMICS STUDENTS 
IN TAY NGUYEN UNIVERSITY 
Nay H’Nga*, Pham Thi Thu Ha, Rcom H Loanh, 
Y Sa Yan Niê, Pham Thi Ngoc Yen 
Tay Nguyen University 
*Corresponding Author: 
[email protected] 
ABSTRACT 
This article has used data from results of the 200 student survey to assess the 
status of sense of initiative in learning of economics students in Tay Nguyen 
University. The content of this article will concentrate on (i) assessing the status 
of sense of initiative in learning, (ii) analysing effecting factors on sense of 
initiative in learning, and (iii) giving some recommendations in order to improve 
of sense of initiative in learning of economics students. The results show that the 
sense of initiative in learning of economics students is quite limited from 
understanding the school regulations to attending activities during and after 
school. Student’s initiative is greatly influenced by family, school, lecturers as 
well as their own perceptions. 
Keywords: Learning, sense of initiative in learning, students. 
TỔNG QUAN 
Ở Việt Nam, đổi mới phương thức đào 
tạo thực sự có chuyển biến lớn vào năm 
2007, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban 
hành “Quy chế đào tạo đại học và cao 
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín 
chỉ”. Hình thức đào tạo theo hệ thống 
tín chỉ có nhiều sự khác biệt đối với cả 
người dạy và người học (Nguyễn 
Thành Hải, 2010): người học đóng vai 
trò trung tâm, chủ đạo, hoàn toàn chủ 
động trong kế hoạch học tập (Nguyễn 
Thành Hải, 2010; Trần Thanh Ái, 
2010), đòi hỏi sinh viên phải có kỹ 
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
325 
năng tự học và tự nghiên cứu. 
Tuy nhiên thói quen và phương pháp 
học tập ở phổ thông đã khiến không ít 
sinh viên gặp khó khăn hoặc cảm thấy 
mất phương hướng khi học trong môi 
trường đại học (Trần Thanh Ái, 2010). 
Do đó, tăng cường tính tự giác là giải 
pháp hiệu quả nhất trong học tập để 
sinh viên nâng cao trình độ và là chìa 
khóa để tiếp thu tri thức (Nguyễn 
Thanh Thúy, 2016). 
Ngoài các đề tài trình bày trên còn có 
rất nhiều nghiên cứu khác về tính chủ 
động của sinh viên trong học tập, tuy 
nhiên chưa có những công bố về thực 
trạng cũng như giải pháp tăng cường 
tính chủ động cho sinh viên khoa Kinh 
tế - Trường Đại học Tây. Chính vì vậy, 
nghiên cứu “Thực trạng về tính chủ 
động trong học tập của sinh viên khoa 
Kinh tế - Trường Đại học Tây Nguyên” 
là một vấn đề quan trọng cần được 
nghiên cứu, thảo luận để góp phần 
nâng cao chất lượng học tập cũng như 
nâng cao đầu ra cho sinh viên. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp thu thập số liệu: Đề tài sử 
dụng cả số liệu sơ cấp và thứ cấp, số 
liệu thứ cấp tổng hợp từ Khoa và phòng 
đào tạo, còn số liệu sơ cấp được thu 
thập từ phiếu điều tra theo phương 
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng 
với 200 phiếu. 
Phương pháp phân tích: Đề tài sử dụng 
phương pháp thống kê mô tả và thống 
kê so sánh và phân tổ thống kê. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Thực trạng về kết quả học tập 
Cùng với tiến trình chung của cả nước, 
trường Đại học Tây Nguyên cũng đã áp 
dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ 
từ năm 2009. Tuy nhiên cũng giống 
như các trường đại học khác trong cả 
nước, sinh viên của trường cũng phải 
đối mặt với nhiều khó khăn để thích 
ứng với môi trường mới và điều này đã 
ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh 
viên trong khoa. 
Kết quả học tập của sinh viên còn hạn 
chế và giảm so với hình thức đào tạo 
theo hệ thống niên chế. Theo thống kê 
kết quả học tập của sinh viên khoa 
Kinh tế - Trường Đại học Tây Nguyên, 
năm học 2015 – 2016, tổng số sinh 
viên của khoa là 2.634 sinh viên, trong 
đó chỉ có 333 sinh viên đạt kết quả học 
tập loại xuất sắc và giỏi (12,64%), tuy 
nhiên có tới 1.317 sinh viên có kết quả 
học tập vào loại yếu, kém chiếm tới 
50% (Hình 1). 
Hình 1. Kết quả học tập của sinh viên khoa Kinh tế 
Thực trạng về tính chủ động trong 
học tập của sinh viên 
Nắm bắt quy chế học tập và cập nhật 
thông tin về ngành học: Kết quả khảo 
sát cho thấy mức độ hiểu biết về quy 
chế học tập và cập nhật thông tin về 
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
326 
ngành học của sinh còn hạn chế, chỉ có 
28,5% số lượng sinh viên được khảo 
sát cho rằng họ biết và hiểu rõ về quy 
chế học tập, trong khi đó cũng chỉ có 
19,35% sinh viên thường xuyên cập 
nhật thông tin thực tế về ngành học. 
Tự học: Sinh viên dành 1-2 giờ trong 
ngày cho việc tự học là chủ yếu với 
32%. Bên cạnh đó, chỉ có 16% số sinh 
viên thường xuyên xem bài trước khi 
lên lớp và ôn bài sau mỗi buổi học và 
có 8% sinh viên dường như không xem 
bài trước khi lên lớp và ôn bài sau mỗi 
buổi học. 
Thái độ đối với việc học: Kết quả khảo 
sát cho thấy sinh viên có thái độ tiêu 
cực với việc học khi mà chỉ có 11,5% 
sinh viên thích thú với mọi môn học, 
4,5% sinh viên cảm thấy chán nản với 
mọi môn học. 
Lý do chính để sinh viên đến lớp: Chỉ 
có 63% sinh viên được khảo sát cho 
rằng việc tiếp thu kiến thức là lý do 
chính để đến lớp (Bảng 1). 
Bảng 1. Lý do chính đến lớp của sinh viên 
Tiêu chí 
Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4 Tổng 
SL % SL % SL % SL % SL % 
Biết kiến thức 126 63,00 43 21,50 28 14,00 3 1,50 200 100 
Gặp bạn bè 32 16,00 86 43,00 76 38,00 6 3,00 200 100 
Sợ không được 
thi 
35 17,50 66 33,00 80 40,00 19 9,50 200 100 
Khác 6 3,00 6 3,00 16 8,00 172 86,00 200 100 
Ghi chú: mức độ 1: lý do quan trọng nhất; mức độ 4: lý do ít quan trọng nhất. 
Hoạt động thường xuyên làm trong giờ 
học của sinh viên: Kết quả khảo sát cho 
thấy phần lớn sinh viên ngồi nghe 
giảng (84%), thảo luận bài (55,5%), dù 
vậy số sinh viên chủ động trong việc 
phát biểu và đặt câu hỏi còn hạn chế.. 
Học nhóm và tham gia các câu lạc bộ 
hoặc nhóm học tập: Tỷ lệ tham gia học 
nhóm của sinh viên còn hạn chế và bị 
động với tỷ lệ sinh viên thường xuyên 
tham gia học nhóm chỉ là 24% và tỷ lệ 
sinh viên tham có tham gia các câu lạc 
bộ hoặc nhóm học tập là 21,5%. 
Các yếu tố ảnh hưởng đến tính chủ 
động trong học tập của sinh viên 
khoa Kinh tế - Trường Đại học Tây 
Nguyên 
Yếu tố từ phía bản thân người học 
Điểm đầu vào: Theo kết khảo sát, điểm 
đầu vào của sinh viên khoa Kinh tế chỉ 
ở mức độ trung bình, chỉ ngang với 
mức điểm sàn các năm. 
Nhận thức về ý nghĩa của việc học: 
Bảng 2 cho thấy, hầu hết sinh viên đã 
nhận thức được ý nghĩa của việc học 
cũng như tầm quan trọng của việc học. 
Bảng 2. Ý kiến của sinh về ý nghĩa của việc học của việc học 
Tiêu chí 
Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4 Tổng 
SL % SL % SL % SL % SL % 
Hiểu biết nghề 
nghiệp 
113 56,50 82 41,00 4 2,00 1 0,50 200 100 
Nâng cao kiến thức 97 48,50 98 49,00 4 2,00 1 0,50 200 100 
Cơ hội thu nhập 69 34,50 102 51,00 23 11,50 6 3,00 200 100 
Khẳng định bản 
than 
58 29,00 106 53,00 30 15,00 6 3,00 200 100 
Cơ hội thăng tiến 58 29,00 112 56,00 24 12,00 6 3,00 200 100 
Cải thiện kỹ năng 95 47,50 100 50,00 4 2,00 1 0,50 200 100 
Ghi chú: mức độ 1: rất đồng ý; mức độ 4: hoàn toàn không đồng ý. 
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
327 
Việc lựa chọn ngành học phù hợp: 
Chọn được một ngành nghề phù hợp sẽ 
khuyến khích sinh viên học tập và 
ngược lại. Theo kết quả khảo sát thì 
71,5% sinh viên khoa kinh tế cho rằng 
ngành nghề đang học là phù hợp với 
bản thân. 
Tham gia vào các hoạt động xã hội ở 
trường/địa phương: Thông qua việc 
tham gia các hoạt động này, sinh viên 
sẽ học hỏi và phát triển nhiều kỹ năng 
khác nhau.Theo kết quả nghiên cứu, 
chỉ có 37,50% sinh viên là tham gia 
vào các hoạt động xã hội hay các câu 
lạc bộ. 
Việc làm thêm: Theo kết quả khảo sát, 
số sinh viên khoa Kinh tế đi làm thêm 
trong quá trình học cũng khá cao 
(22,5%). Trong số sinh viên đi làm 
thêm có 57,58% sinh viên làm các 
công việc liên quan đến ngành học và 
chỉ 37,78% sinh viên cho rằng việc làm 
thêm ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ và 
kết quả học tập. 
Yếu tố từ phía gia đình người học 
Gia đình có vai trò quan trọng đến quá 
trình hình thành và phát triển của mọi 
cá nhân. Theo kết quả điều tra, có 
49,0% sinh viên cho rằng gia đình là 
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hứng 
thú học tập cũng như việc chủ động 
trong học tập. 
Các yếu tố khác từ phía bản thân và gia 
đình người học: Có 35% sinh viên gặp 
phải khó khăn là khả năng tiếp thu bài 
chậm, có 19% sinh viên bị ép buộc 
phải theo ngành học, hơn 11% sinh 
viên gặp khó khăn về kinh tế gia đình 
và 7% có khó khăn về vấn đề sức khỏe. 
Những khó khăn này sẽ ảnh hưởng rất 
lớn đến tính chủ động trong học tập của 
sinh viên. 
Nhóm yếu tố từ phía nhà trường 
Bên cạnh đó, cố vấn học tập (CVHT) 
cũng có ảnh hưởng phần nào đến tính 
chủ động trong học tập của sinh viên. 
Kết quả khảo sát cho thấy gần 90% 
sinh viên biết mặt và biết tên CVHT 
của lớp mình. Tuy nhiên, số lượng sinh 
viên biết các thông tin chi tiết về 
CVHT của mình còn chiếm một tỷ lệ 
khá thấp (54,50%). 
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến tính 
chủ động trong học tập của sinh viên là 
điểm bộ phận. Đối với trường Đại học 
Tây Nguyên, điểm bộ phận được quy 
định là 10%, đồng nghĩa với việc điểm 
thi kết thúc học phần là 90%. Theo kết 
quả khảo sát, việc quy định điểm bộ 
phận với trọng số 10% làm cho tính 
chủ động của sinh viên phần nào bị 
giảm sút. Điều đó khiến cho sinh viên 
có tâm lý thụ động, giảm động lực học 
tập ở lớp. Chính vì vậy mà 60% sinh 
viên cho là trọng số của điểm bộ phận 
là quá thấp và cần tăng lên. 
Đề xuất các giải pháp nâng cao tính 
chủ động của sinh viên khoa Kinh tế 
- Trường Đại học Tây Nguyên 
Giải pháp từ phía sinh viên: Để nâng 
tính chủ động trong học tập, sinh viên 
cần (1) tin tưởng vào khả năng tự học 
của mình; (2) phải xác định cho mình 
phương pháp tự học. kế hoạch học tập 
một cách khoa học và hợp lý; (3) cần 
nâng cao ý thức học tập như nhận thức 
đúng đắn về tầm quan trọng trong việc 
lựa chọn ngành học phù hợp, hay động 
cơ học tập; (4) cần giải quyết kịp thời 
các khó khăn xuất hiện trong học tập 
thông qua việc tìm kiếm sự giúp đỡ từ 
đổi với giảng viên chuyên môn, 
CVHT, bạn bè  nhằm tạo tâm lý ổn 
định trong suốt quá trình học tập; (5) 
tích cực tham gia các hoạt động học 
nhóm, tham gia các câu lạc bộ học tập 
và mạnh dạn trao đổi chia sẻ, học hỏi 
kinh nghiệm học; (6) phải biết kết hợp 
học tập với hoạt động giải trí, thể thao 
để giảm bớt áp lực trong quá trình tự 
học; và (7) trong trường hợp sinh viên 
đi làm thêm cần ưu tiên lựa chọn các 
công việc làm thêm phù hợp với ngành 
học, kế hoạch làm việc hạn chế tối đa 
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018 Kỷ yếu khoa học 
328 
mức độ ảnh hưởng tiêu cực đến quá 
trình học tập. 
Kiến nghị đối gia đình: Cần phải có (1) 
những định hướng cho con cái, nhất là 
định hướng về nghề nghiệp tương lai, 
tạo ra hướng đi đúng đắn cho con cái 
khi bước chân vào ngưỡng cửa đại học 
và không nên áp đặt con cái theo ý 
muốn chủ quan của mình; (2) gia đình 
cũng cần dạy cho con cái tính chủ động 
trong mọi công việc, kể cả học tập ngay 
từ khi con cái còn nhỏ, đặc biệt nhất là 
trong điều kiện phải học tập xa gia 
đình, đồng thời cũng chủ động về kế 
hoạch tài chính cho quá trình học tập 
của con họ; và (3) thường xuyên cập 
nhật thông tin về học tập của con để kịp 
thời có những can thiệp, định hiệp và 
động viên phù hợp. 
Kiến nghị với nhà trường: Nhà trường 
(1) cần cải tiến chương trình đào tạo, 
hướng vận dụng lý thuyết vào thực 
tiễn; (2) khuyến khích giảng viên đổi 
mới phương pháp giảng dạy tạo sự chủ 
động, tích cực và đảm bảo công bằng 
cho sinh viên; (3) thường xuyên tổ 
chức các buổi hội thảo, nói chuyện 
chuyên đề nắm bắt nguyện vọng của 
sinh viên hoặc tư vấn định hướng nghề 
nghiệp; (4) xây dựng các câu lạc bộ 
học tập hiểu quả nhằm đáp ứng nhu cầu 
học tập của sinh viên, đồng thời là một 
kênh để sinh viên trao đổi, chia sẻ các 
vướng mắc trong học tập; và (5) nhà 
trường cần tăng cường cơ sở vật chất, 
cung cấp đầy đủ các trang thiết bị, sách 
báo cho việc dạy và học, xây dựng 
trọng số điểm bộ phù hợp để đảm bảo 
khuyến khích người học, đồng thời 
phát huy hơn vai trò của cố vấn học tập. 
KẾT LUẬN 
Thực trạng tính chủ động trong học tập 
của sinh viên khoa Kinh tế, trường Đại 
học Tây Nguyên vẫn còn nhiều hạn chế 
trong các hoạt động của quá trình học 
tập từ việc nắm bắt quy chế học tập, 
cập nhật thông tin ngành học cho tới 
quá trình học tập ở lớp và ở nhà. Tính 
chủ động trong quá trình học tập của 
sinh viên bị tác động bởi cả yếu tố 
khách quan lẫn chủ quan, các yếu tố 
này có thể đến từ bản thân sinh viên, 
gia đình và nhà trường. Để tăng tăng 
cường tính chủ động trong học tập của 
sinh viên, ngoài những thay đổi trong 
thái độ, ý thức và cách thức tổ chức học 
tập của người học, cần có chia sẻ, quan 
tâm và định hướng của gia đình và việc 
xây dựng môi trường học tập của của 
nhà trường, đặc biệt là sự đổi mới trong 
phương pháp giảng dạy nhằm tạo ra sự 
khuyến khích trong học tập và công 
bằng trong đối xử giữa các sinh viên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
ĐÀO NGỌC CẢNH (2010). Một số vấn đề đang đặt ra qua thực tế giảng dạy 
theo hệ thống tín chỉ ở Trường Đại học Cần Thơ. Kỷ yếu Hội thảo khoa 
học toàn quốc “Đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo hệ thống tín 
chỉ”, chuyên san của tạp chí Trường Đại học Sài Gòn. 
ĐÀO NGỌC CẢNH, HUỲNH VĂN ĐÀ (2012). Nâng cao tính chủ động của 
sinh viên – giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng trong đào tạo 
theo học chế tín chỉ. Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ. 
NGUYỄN CHÍ THANH VÀ NGUYỄN TRUNG KIÊN (2010). Sự thực hành 
học tập của sinh viên: Một thử nghiêm mô hình hóa các yếu tố tác động. 
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.