Một trong những biến chứng nghiêm trọng của di căn xương do 
ung thư là tăng canxi máu, biến chứng này thường có tiên lượng xấu. 
Các triệu chứng đi kèm là chán ăn, buồn nôn, nôn, buồn ngủ, lú lẫn và 
hôn mê. Tỷ lệ sống trung bình của các bệnh nhân bị tăng canxi huyết do 
ung thư khoảng 1-3 tháng.
Hầu hết các ung thư có khả năng di căn xương. Tỷ lệ di căn xương 
của ung thư vú, tiền liệt tuyến lên tới 65-70%; ung thư phổi, dạ dày, đại 
tràng khoảng 15-40%. Di căn xương gây đau, hạn chế vận động, gãy xương, 
chèn ép tủy. 90% di căn xương gặp ở các vị trí cột sống, xương chậu, đầu 
trên xương đùi, các xương sườn, đầu trên xương cánh tay, khi chẩn đoán 
thường đã đa ổ. 
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 0 
              
            Nội dung tài liệu Thuốc điều trị tăng canxi máu trong ung thư di căn xương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thuốc điều trị tăng canxi máu trong 
ung thư di căn xương 
Một trong những biến chứng nghiêm trọng của di căn xương do 
ung thư là tăng canxi máu, biến chứng này thường có tiên lượng xấu. 
Các triệu chứng đi kèm là chán ăn, buồn nôn, nôn, buồn ngủ, lú lẫn và 
hôn mê. Tỷ lệ sống trung bình của các bệnh nhân bị tăng canxi huyết do 
ung thư khoảng 1-3 tháng. 
Hầu hết các ung thư có khả năng di căn xương. Tỷ lệ di căn xương 
của ung thư vú, tiền liệt tuyến lên tới 65-70%; ung thư phổi, dạ dày, đại 
tràng khoảng 15-40%. Di căn xương gây đau, hạn chế vận động, gãy xương, 
chèn ép tủy. 90% di căn xương gặp ở các vị trí cột sống, xương chậu, đầu 
trên xương đùi, các xương sườn, đầu trên xương cánh tay, khi chẩn đoán 
thường đã đa ổ. 
 Điều trị như thế nào? 
Mục tiêu lý tưởng của điều trị tăng canxi máu do ung thư là phục hồi 
nước đầy đủ, bình thường hóa nồng độ canxi huyết thanh và điều trị bệnh lý 
ác tính là nguyên nhân. Do đó kiểm soát ban đầu tình trạng tăng canxi máu 
bao gồm truyền nước muối sinh lý đường tĩnh mạch để điều chỉnh giảm thể 
tích nội mạch, cải thiện tốc độ lọc cầu thận và tăng cường đào thải canxi qua 
nước tiểu. Dùng furosemid không còn được khuyến cáo sử dụng thường quy 
do có nguy cơ làm tăng canxi máu nặng hơn, gia tăng đào thải kali và magiê, 
có thể dẫn đến loạn nhịp tim. Corticoid giảm nồng độ canxi huyết thanh chỉ 
ở những bệnh nhân đáp ứng với steroid như lymphoma và đa u tủy xương, 
nhưng có nguy cơ gây nhiều biến chứng. 
 Khi bù đủ dịch, thì hầu hết các bệnh nhân đều cần đến ức chế đặc 
hiệu hủy xương để đạt được canxi máu bình thường. Calcitonin ức chế trực 
tiếp và nhanh chóng các hủy cốt bào nhưng tác dụng của nó ngắn hạn và chỉ 
nên dùng cho điều trị ban đầu tăng canxi máu trầm trọng. 
Biphosphonat - một hướng mới để điều trị tăng canxi máu. 
Các thuốc biphosphonat mở ra hướng mới trong những năm gần đây. 
Biphosphonat là một nhóm các hợp chất có cấu trúc dựa trên cấu trúc của 
pyrophosphat, nhưng chứa một khung phospho-cacbon-phospho (P-C-P), 
rất ổn định và đề kháng với enzym thủy phân, do đó cho phép gắn kết tốt 
hơn vào xương. Biphosphonat là các thuốc ức chế đặc hiệu hủy cốt bào 
mạnh nhất hiện có, làm giảm tình trạng hủy xương, do đó làm bình thường 
lượng canxi máu. Pamidronic acid với liều 90mg dùng theo đường truyền 
tĩnh mạch trong 2 giờ, bình thường hóa nồng độ canxi máu ở 70-90% bệnh 
nhân và được dung nạp tốt, có thể dùng tiếp sau 3-4 tuần. Các nghiên cứu 
trên bệnh nhân tăng canxi máu cho thấy đáp ứng khoảng 80% với alendronic 
acid hay ibandronic acid. Mới đây nhất là zoledronic acid, được các nước 
Âu, Mỹ dùng từ năm 2001. Zoledronic acid tiêm tĩnh mạch được Cục Quản 
lý thuốc và thực phẩm Hoa kỳ (FDA) phê chuẩn trong điều trị tăng calci 
máu trong các bệnh đa u tủy xương Kahler, di căn của ung thư xương. Đây 
là một biphosphonat thế hệ ba, có tác dụng ức chế mạnh mẽ hoạt tính của 
hủy cốt bào. Sau khi bù nước đầy đủ ở những bệnh nhân bị tăng canxi huyết 
từ trung bình đến nặng, bệnh nhân nên được cho truyền tĩnh mạch liều đơn 
zoledronic acid 4 mg (liều khuyến cáo của zoledronic acid là 4mg, pha với 
100ml dung dịch sodium chloride 9% hay glucose 5%, truyền tĩnh mạch 
trong vòng 15 phút mỗi 3 hay 4 tuần). Với liều này tiêm tĩnh mạch 1 lần 
trong điều trị tình trạng tăng canxi huyết nặng do ung thư, có tác dụng bình 
thường hóa nồng độ canxi huyết thanh vào ngày thứ 10. Thời gian trung 
bình cho tới khi tái phát và thời lượng của đáp ứng hoàn toàn cũng dài gấp 
đôi so với bệnh nhân dùng một loại thuốc biphosphonat khác là pamidronic 
acid. Do vậy ở bệnh nhân có tình trạng tăng canxi máu do ung thư, 
zoledronic acid được mong đợi sẽ trở thành một điều trị được lựa chọn. 
Thuốc có tác dụng hạ canxi máu mạnh hơn từ 5-25 lần so với các thuốc 
biphosphonat khác như risedronat, ibandronat, có hiệu quả cả với các trường 
hợp thất bại với pamidronate. Tái điều trị có thể xem xét lại sau 7 ngày nếu 
nồng độ canxi trong huyết thanh vẫn còn cao. 
Tuy nhiên khi dùng, cần kiểm tra chặt chẽ chức năng thận ở tất cả các 
bệnh nhân dùng thuốc này. Nếu suy giảm thì nên ngừng điều trị. Không cần 
điều chỉnh liều ở những bệnh nhân bị tăng canxi huyết do ung thư nhập viện 
có suy thận ở giai đoạn nhẹ đến vừa. Nên thận trọng khi dùng zoledronic 
acid cho bệnh nhân hen phế quản nhạy cảm với aspirin. Cũng cần thận trọng 
khi dùng zoledronic acid với aminoglycosid hay thuốc lợi tiểu quai do gia 
tăng nguy cơ hạ canxi máu. Như vậy zoledronic acid bình thường hóa nồng 
độ canxi máu và cho khởi phát tác động nhanh hơn, tỷ lệ đáp ứng cao hơn và 
thời lượng đáp ứng lâu hơn so với các biphosphonat khác. Do đó zoledronic 
acid được mong đợi trở thành điều trị lựa chọn cho chỉ định này. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 thuoc dieu tri tang canxi mau trong ung thu di can xuong.pdf thuoc dieu tri tang canxi mau trong ung thu di can xuong.pdf